• Không có kết quả nào được tìm thấy

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam"

Copied!
83
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

i

MỤC LỤC

1. Lý do chọn đề tài ... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ... 2

3. Đối tượng nghiên cứu ... 3

4. Phạm vi nghiên cứu ... 3

5. Phương pháp nghiên cứu ... 3

6. Kết cấu đề tài nghiên cứu ... 5

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ... 6

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ... 6

1.1. Ngân hàng thương mại ... 6

1.1.1. Khái niệm ... 6

1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng ... 7

1.1.2.1. Chức năng luân chuyển tài sản ... 7

1.1.2.2. Chức năng cung cấp dịch vụ ... 9

1.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ... 9

1.2.1. Khái niệm Hiệu quả kinh doanh ... 9

1.2.2. Phân biệt các loại hiệu quả ... 11

1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh ... 12

1.2.4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại ... 13

1.2.4.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải gắn với chất lượng hoạt động kinh doanh và tính bền vững của hiệu quả kinh doanh. ... 13

1.2.4.2. Kết quả kinh doanh và mức độ sử dụng các yếu tố đầu vào là cơ sở tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ... 14

1.2.4.3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần đặt hiệu quả kinh doanh và lợi ích của doanh nghiệp trong quan hệ với hiệu quả kinh doanh và lợi ích của các đối tác trong chuỗi cung ứng. ... 14

1.2.5. Các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của NHTM ... 15

1.2.5.1. Nhóm nhân tố bên trong ... 15

Trường Đại học Kinh tế Huế

(2)

ii

1.2.5.2. Nhóm nhân tố bên ngoài ... 17

1.2.6. Hệ thống chỉ tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh của NHTM ... 19

1.2.6.1. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh ... 19

1.3. Các nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước ... 23

1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài ... 23

1.3.2. Các nghiên cứu trong nước ... 25

CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM... 28

2.1. Tổng quan hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 28 2.1.1. Tình hình kinh tế xã hội chung ... 28

2.1.2. Hoạt động ngân hàng thương mại ... 31

2.2. Khái quát về các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam ... 34

2.3. Đo lường và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam ... 36

2.3.1. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam ... 36

2.3.1.1. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu ... 36

2.3.1.2. Mẫu và cách chọn mẫu nghiên cứu ... 43

2.3.1.2. Phân tích dữ liệu ... 46

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIÊT NAM ... 53

3.1. Định hướng và mục tiêu phát triển ngành ngân hàng Việt Nam ... 53

3.2. Đánh giá tình hình hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam ... 61

3.2.1. Điểm mạnh ... 61

3.2.2. Hạn chế, khó khăn ngành Ngân hàng tiếp tục phải đối mặt ... 66

3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam ... 68

3.3.1.Giải pháp tăng quy mô tài sản, vốn ... 68

3.3.2. Giải pháp tiết kiệm chi phí ... 70

Trường Đại học Kinh tế Huế

(3)

iii

3.3.3. Tăng cường hoạt động tín dụng, cho vay ... 72 3.3.4. Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ... 74 PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ... 77

Trường Đại học Kinh tế Huế

(4)

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Thống kê hoạt động ngân hàng tính đến 31/12/2020

Bảng 2.2. Tỷ lệ an toàn vốn của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (đến tháng 12/2020, tốc độ tăng trưởng so với thời điểm cuối năm trước)

Bảng 2.3. Danh sách ngân hàng niêm yết trên sàn HOSE Bảng 2.4. Danh sách ngân hàng niêm yết trên sàn HNX Bảng 2.5. Danh sách ngân hàng niêm yết trên sàn UPCOM Bảng 2.6. Tổng hợp biến và đo lường

Bảng 2.7.

Bảng 2.7. Hệ số R2

Bảng 2.8. Kiểm định ANOVA Bảng 2.9. Kết quả mô hình hồi quy

Trường Đại học Kinh tế Huế

(5)

v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BOT Xây dựng – vận hành – chuyển giao

CAR Hệ số an toàn vốn

CPI Tỷ số giá tiêu dùng

GDCK Giao dịch chứng khoán

GDP Tổng sản phẩm quốc nội

HOSE Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

HXN Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

KH&CN Khoa học và công nghệ

LDP Cho vay trên tiền gửi

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng trung ương

NIM Biên độ lãi ròng

NPL Nợ xấu

NXB Nhà xuất bản

ROA Tỷ suất sinh lời trên tài sản

ROE Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu

SOB Ngân hàng sở hữu nhà nước

SXKD Sản xuất kinh doanh

TCTD Tổ chức tín dụng

TNHH MTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

TPDN Trái phiếu doanh nghiệp

TS Tài sản

TSĐB Tài sản đảm bảo

TTKDTM Thanh toán không dùng tiền mặt

UPCOM Thị trường công ty đại chúng chưa niêm yết

USD Tiền Đô la Mỹ

VND Tiền Đồng Việt Nam

Trường Đại học Kinh tế Huế

(6)

1

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế phát triển mạnh trong những năm vừa qua của Đông Nam Á cũng là thành viên phát triển năng động của tổ chức kinh tế thế giới WTO. Năm 2019 là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế vượt mục tiêu đề ra, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được củng cố; xuất siêu đạt mức cao kỷ lục; niềm tin của nhà đầu tư và người dân vào môi trường kinh doanh được củng cố - là cơ sở để Standard & Poor và Fitch Ratings nâng mức xếp hạng tín nhiệm cũng như triển vọng xếp hạng đối với Việt Nam. Theo dữ liệu từ McKinsey Global Institue City Cope Data Base ước tính, đến năm 2030, Việt Nam sẽ có 21 triệu hộ gia đình có thu nhập hàng năm hơn 7.500 USD, tầng lớp trung lưu mở rộng nhanh chóng, do đó Việt Nam sẽ trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh trên thế giới.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế trong nước là sự bùng nổ kinh tế mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại. Từ báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại đã chỉ ra nhiều ngân hàng có kết quả kinh doanh năm 2018 tăng trên 50% so với năm 2017.

Cũng theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng năm 2018 ở mức 14%, thấp nhất trong 4 năm qua tuy nhiên sự đóng góp của nguồn vốn ngân hàng vào tăng trương GDP khá tích cực, khi quy mô tín dụng năm 2018 đạt 7,42 triệu tỷ đồng, bằng 134% GDP là 5,54 triệu tỷ đồng. Không chỉ vậy, cổ phiếu ngân hàng cũng có tác động lớn tới thị trường chứng khoán khi có 3 mã VCB, BID, TCB chiếm khoảng 15%

vốn hoá thị trường, nằm trong Top 10 những mã chứng khoán có vốn hoá lớn nhất thị trường. Các mã cổ phiếu ngân hàng như: VCB, BID, TCB , MBB, STB thay phiên nhau lọt Top 10 mã chứng khoán có lượng giao dịch lớn nhất trên sàn HOSE.

Từ cuối năm 2019, đầu năm 2020 sự bùng phát bệnh dịch Covid 19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội Việt Nam và trên thế giới. Các hoạt động kinh tế như du lịch, dịch vụ, nông nghiệp, sản xuất... gần như đình trệ và chịu tổn thất nặng nề;

lạm phát, thất nghiệp tăng cao. Không nằm ngoài tác động này, ngành ngân hàng cũng có nhiều sự biến động. theo báo cáo tài chính của 26 ngân hàng đã công bố, có đến 11 ngân hàng sụt giảm lợi nhuận trong quý I/2020 so với cùng kỳ, trong đó có một số ngân

Trường Đại học Kinh tế Huế

(7)

2

hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank, MBBank, Sacombank,… Điều này xuất phát từ bốn nguyên nhân: Lãi thuần giảm do áp dụng hỗ trợ khách hàng theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020; Doanh thu từ phí dịch vụ giảm do các chính sách miễn/giảm phí, thu từ hoạt động thanh toán, bảo lãnh giảm; Chi phí dự phòng rủi ro tăng lên do chất lượng tín dụng suy giảm; Chi phí hoạt động tăng do năng suất lao động giảm khi phải làm việc từ xa; phát sinh thêm chi phí để bảo hộ cho người lao động,… Kết quả bước đầu sau hơn 2 tháng triển khai quyết liệt các chính sách hỗ trợ, đã tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp vượt qua và khôi phục sản xuất kinh doanh. Đến giữa năm 2020, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho hàng nghìn khách hàng với dư nợ 130 nghìn tỷ đồng, miễn, giảm, hạ lãi suất, cho vay mới lãi suất ưu đãi, miễn, giảm phí thanh toán... Trong đó, riêng doanh nghiệp chiếm khoảng gần 80% tổng số đã được ngân hàng hỗ trợ.

Có thể thấy tầm quan trọng của ngành ngân hàng trong nền kinh tế được ví như

“Ngân hàng hắt hơi, cả nền kinh tế sổ mũi”. Và cho dù hiện nay, ngành ngân hàng được đánh giá là ít chịu thiệt hại do Covid so với các ngành nghề khác thì sự ảnh hưởng của dịch bệnh cũng gây ra nhiều biến động trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, nắm bắt được những yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh dịch bệnh trở nên cần thiết hơn bao giờ hết và đặc biệt khi mà các ngân hàng hầu như đã lên sàn giao dịch thì mọi thông tin về lợi nhuận ngân hàng luôn được thị trường quan tâm. Nhận thức được tầm quan trọng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, nghiên cứu “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm phát hiện các yếu tố ảnh hưởng và phát huy tính tích cực, hạn chế những rủi ro ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát

Tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nhằm đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại

Trường Đại học Kinh tế Huế

(8)

3

Mục tiêu cụ thể

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, các nhân tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại, đánh giá sự tác động của các nhân tố đó

- Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam

4. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu các ngân hàng thương mại nội địa niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2017 – 2020.

Trong giai đoạn này, Việt Nam mới có 24 trong tổng số 31 ngân hàng niêm yết trên 3 sàn chứng khoán. Trong đó có 14 ngân hàng niêm yết trên sàn HOSE: BIDV, Vietinbank, VCB, VPBank, Eximbank, HDBank, MB, Sacombank, Techcombank, TPBank, VIB, ACB, LienVietPostBank, MSB; 3 ngân hàng niêm yết trên sàn HNX:

SHB, NCB, ABB; 7 ngân hàng đang giao dịch trên sàn UPCOM: BAB, Kienlongbank, Vietbank, Vietcapitalbank, Saigonbank, Nam Á Bank, PGBank.

5. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu tài liệu tham khảo:

Trên cơ sở đọc, nghiên cứu, tổng hợp, ghi chép các thông tin liên quan và các công trình nghiên cứu trước cùng và gần với đề tài ở cả trong và ngoài nước để tham khảo, chuẩn bị về cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, cũng như lựa chọn phương pháp nghiên cứu đề tài phù hợp.

Phương pháp thu thập dữ liệu: Đề tài sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập bằng cách ghi chép, tổng hợp các số liệu bao gồm: số liệu về các yếu tố kinh tế và đặc điểm

Trường Đại học Kinh tế Huế

(9)

4

ngân hàng thương mại Việt Nam từ các nguồn dữ liệu tin cậy và dữ liệu báo cáo tài chính của các ngân hàng trên website từng ngân hàng. Ngoài ra, một số dữ liệu khác liên quan đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên các website kinh tế, Website của Cục thống kê…

Phương pháp xử lí, và phân tích số liệu: Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, so sánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng làm cơ sở chạy mô mô hình. Bên cạnh đó, đề tài tiến hành nghiên cứu định lượng trên cơ sở phân tích hồi quy, là phân tích bằng cách ước tính biến phụ thuộc dựa trên hai (02) hoặc nhiều biến độc lập liên quan với nhau. Nó cho phép diễn giải tổng phương sai được giải thích trong biến phụ thuộc bằng các biến độc lập và thực hiện các diễn giải liên quan đến hướng quan hệ giữa các biến độc lập – là các biến bên trong và bên ngoài và biến phụ thuộc – biến đại diện cho hiệu quả hoạt động. Mô hình toán học chỉ ra mố quan hệ tuyến tính thực có thể được viết như sau, cho n biến độc lập:

Y = 0 + 1X1 + 2X2 + 3X3 + … + nXn + ;

Trong đó:

Y: Biến phụ thuộc;

X: Biến độc lập;

: các thông số cần ước tính;

: sai số Trong mô hình hồi quy

Giả thuyết H0 được chấp nhận khi tất cả các hệ số hồi quy i bằng 0 (không);

trong khi giả thiết H1 được chấp nhận khi ít nhất một i khác 0. Các xu hướng () chỉ ra lượng thay đổi của biến phụ thuộc theo phản ứng thay đổi đơn vị trong biến độc lập, khi các biến khác được giữ không đổi và chúng được đặt tên là xu hướng một phần hoặc hệ số hồi quy của các biến. Bên cạnh đó, phép thử t-test được sử dụng để đánh giá tầm quan trọng của từng tham số và kiểm tra xem mọi biến độc lập có khả năng giải thích biến phụ thuộc hay không, còn tầm quan trọng của toàn bộ mô hình được kiểm tra bằng phép thử F-test. Ngoài ra, hệ số xác định R2 chỉ ra tỷ lệ phần trăm của biến phụ thuộc được giải thích bởi biến độc lập. Ngoài ra thử nghiệm Durbin-Watson để kiểm tra sự tự tương quan giữa các biến trong mô hình. Nếu kết quả của thử nghiệm Durbin-Watson

Trường Đại học Kinh tế Huế

(10)

5

giao động từ 1,5 đến 2,5 thì có thể kết luận là không có sự tự tương quan giữa các biến (Kalayci, 2006).

Để giải quyết và phân tích mô hình hồi quy bội, nghiên cứu sử dụng phần mềm thống kê SPSS Statistics.

6. Kết cấu đề tài nghiên cứu Phần I: Đặt vấn đề

Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu

Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả hoạt động

Chương 2: Các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam

Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Phần III: Kết luận và Kiến nghị

Trường Đại học Kinh tế Huế

(11)

6

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

1.1. Ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm

Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì:

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính có vai trò quan trọng của nền kinh tế. Trước hết, với vài trò trung gian tài chính, ngân hàng thương mại thực hiện việc chuyển các khoản tiết kiệm (chủ yếu từ hộ gia đình) thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các tác nhân khác thực hiện các hoạt động đầu tư. Đồng thời, ngân hàng thương mại là người cung cấp các khoản tín dụng cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất, là một trong những thành viên quan trong nhất của thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền trung ương và địa phương phát hành để tài trợ cho các chương trình công cộng. Ngân hàng thương mại cũng là một trong những tổ chức cung cấp vốn lưu động, vốn trung hạn và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp.

- Với vai trò thanh toán, ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử...

- Với vai trò người bảo lãnh, ngân hàng thương mại cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán.

- Với vai trò đại lý, các ngân hàng thương mại thay mặt khách hàng quản lý và bảo lãnh phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(12)

7

- Cuối cùng với vai trò thực hiện chính sách, các ngân hàng thương mại còn là một kênh quan trọng để thực thi chính sách vĩ mô của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế vào theo đuổi các mục tiêu xã hội

1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng

Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho công chúng cũng như thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh tế. Thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực, khả năng cung cấp các dịch vụ cho công chúng theo giá cạnh tranh trên thị trường

1.1.2.1. Chức năng luân chuyển tài sản

* Hoạt động huy động vốn: là hoạt động mang tính chất tiền đề nhằm tạo lập nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Bởi vậy, để đảm bảo nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng thương mại có thể thực hiện các hoạt động huy động vốn từ:

- Vốn chủ sở hữu: đây là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động. Nguồn vốn này tuy chiếm tỷ trọng không lớn, thông thường khoảng 10%

tổng số vốn, nhưng có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân hàng, cụ thể nó là điều kiện cho phép các ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới kinh doanh, quy mô huy động, mua sắn tài sản cố định, góp vốn liên doanh, cấp vốn cho các công ty con và các hoạt động kinh doanh khác, đồng thời nó cũng là thước đo năng lực tài chính của mỗi ngân hàng và khả năng phòng vệ rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn chủ sở hữu gồm có vốn điều lệ, các quỹ của ngân hàng hình thành trong quá trình kinh doanh và các tài sản khác theo quy định của Nhà nước.

- Tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi giao dịch: trong đó tiền gửi tiết kiệm của dân cư chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng thương mại. Ngoài ra còn có các khoản tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, các khoản tiền gửi này có thể là các khoản phải trả đã xác định thời hạn chi hoặc các khoản tích lũy của doanh nghiệp. Bên cạnh các khoản tiền gửi có kỳ hạn, ngân hàng thương mại còn huy động các khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là những khoản tiền mà người gửi

Trường Đại học Kinh tế Huế

(13)

8

có thể rút bất kỳ lúc nào. Các khoản tiền gửi không kỳ hạn này có thể bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi để bảo đảm an toàn tài sản của khách hàng. Điểm nổi bật của loại tiền gửi này đó là có chi phí huy động thấp nhưng biến động mạnh, tính chất vận động phức tạp và có nhiều rủi ro

- Phát hành chứng khoán: thông qua thị trường tài chính, hiện nay các ngân hàng thương mại có thể huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu, và các giấy tờ có giá khác với nhiều loại kỳ hạn, lãi suất khác nhau, có ghi danh hoặc không ghi danh nhằm đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và đáp ứng nhu cầu nắm giữ các tài sản khác nhau của khách hàng, đồng thời thông qua các hoạt động này ngân hàng có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường.

- Vay từ ngân hàng thương mại khác: trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình nếu các ngân hàng thương mại nhận thấy nhu cầu vay vốn của khách hàng gia tăng mạnh hoặc ngân quỹ bị thiếu hụt do có nhiều dòng tiền rút ra, thì các ngân hàng thương mại có thể vay nợ tại các ngân hàng khác như Ngân hàng Nhà nước thông qua hình thức chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, các hợp đồng tín dụng đã cấp cho khách hàng; hoặc vay của các tổ chức tài chính khác trên thị trường tiền tệ nhằm bổ sung cho thiếu hụt tạm thời về vốn.

* Hoạt động sử dụng vốn: chức năng thứ hai trong hoạt động luân chuyển tài sản của các ngân hàng thương mại là thực hiện các hoạt động tín dụng và đầu tư. Đây là các hoạt động đem lại nguồn thu cho ngân hàng và bù đắp các chi phí trong hoạt động.

- Hoạt động tín dụng: hiện nay vẫn là một trong những hoạt động cơ bản, truyền thống và đóng vai trò quan trọng nhất trong các hoạt động tạo ra thu nhập của ngân hàng thương mại (hoạt động này thường chiếm 60%-80% tài sản của ngân hàng). Mặc dù, hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, tuy nhiên nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro (rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro chính trị và rủi ro đạo đức) khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ảnh hưởng lớn đến ngân hàng vì phần lớn vốn của ngân hàng là được huy động từ nền kinh tế.

- Hoạt động đầu tư: để đa dạng hóa việc sử dụng nguồn vốn, giảm rủi ro trong hoạt động, tăng thu nhập và hỗ trợ thanh khoản khi cần thiết, ngoài hoạt động tín dụng

Trường Đại học Kinh tế Huế

(14)

9

các ngân hàng thương mại còn thực hiện các hoạt đầu tư như: hoạt động đầu tư gián tiếp (các hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán thông qua việc mua bán các chứng khoán do chính phủ, công ty phát hành), hoặc các hoạt động đầu tư trực tiếp (góp vốn vào các doanh nghiệp, các công ty tài chính...).

1.1.2.2. Chức năng cung cấp dịch vụ

Cùng với sự phát triển kinh tế, các hoạt động cung cấp dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa các hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng mang lại cho ngân hàng những khoản thu nhập không nhỏ. Các hoạt động dịch vụ này bao gồm các hoạt động như dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, uỷ thác, đại lý, kinh doanh chứng khoán... Ngoài ra, trước sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin, hiện nay các ngân hàng còn phát triển và cung cấp các dịch vụ mới như các dịch vụ thẻ, Internet Banking, Phonebanking... cũng như phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng quốc tế.

1.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động

1.2.1. Khái niệm Hiệu quả kinh doanh

Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường có quan hệ với tất cả các yếu tố bên trong sản xuất kinh doanh như nguồn lực lao động, nguồn lực tài chính, quản trị công ty... Đối với doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh hiệu quả là thước đo về chất lượng sử dụng các nguồn lực và trình độ quản lý doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh được xem là hiệu quả khi doanh nghiệp tạo được vốn để phát triển thêm, tạo dựng niềm tin ở người lao động cũng như cá nhân, tổ chức bên ngoài, đóng góp cho ngân sách và xã hội... Có nhiều quan điểm về hiệu quả kinh doanh như:

Thứ nhất, “Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh xác định. Chỉ các doanh nghiệp kinh doanh mới nhằm vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và vì thế mới cần đánh giá hiệu quả kinh doanh” (Giáo trình Quản trị kinh doanh (Tập I), NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2017). Hay “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực

Trường Đại học Kinh tế Huế

(15)

10

kinh doanh và tại mọi thời điểm. Bất kỳ các quyết định cần đạt được phương án tốt nhất trong điều kiện cho phép, giải pháp thực hiện có tính cân nhắc, tính toán chính xác phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong từng điều kiện cụ thể” (Đỗ Hoàng Toàn, 1994).

Quan điểm thứ hai cho rằng: " Hiệu quả kinh doanh mô tả mối tương quan giữa lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt được với chi phí đã bỏ ra để đạt được lợi ích đó", (Phạm Công Đoàn &Nguyễn Cảnh Lịch, 2004). Hay: "Hiệu quả kinh tế thương mại trước hết biểu hiệu mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra" (Đặng Đình Đào & Hoàng Đức Thân, 2012). Quan điểm này chỉ ra phương trình của kinh doanh, lợi ích kinh tế hay lợi nhuận tương quan phù hợp với chi phí bỏ ra.

Quan điểm thứ ba cho rằng: "Hiệu quả kinh doanh là biểu hiện của việc kết hợp theo một tương quan xác định cả về lượng và chất của các yếu tố cấu thành quá trình kinh doanh: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động” (Nguyễn Văn Công, 2009). Quan điểm này xác định được mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh với sự kết hợp về lượng và chất của các yếu tố cấu thành quá trình kinh doanh.

Quan điểm thứ tư cho rằng: " Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định"

(Nguyễn Thành Độ & Nguyễn Ngọc Huyền, 2012). Theo quan điểm này, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào đều phải gắn xem xét việc thực hiện mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp với xem xét trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Từ quan điểm này, có thể nhận thấy các yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có thể lượng hóa được.

Tóm lại có thể thấy rằng hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài chính, vật lực) vào hoạt động kinh doanh để có kết quả cao nhất nhưng chi phí thấp nhất. Từ khái niệm khái quát này, có thể hình thành công thức biễu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:

H = K/C

Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế) nào đó;

K là kết quả thu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó;

Trường Đại học Kinh tế Huế

(16)

11

C là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó.

Và như thế cũng có thể khái niệm ngắn gọn: hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

1.2.2. Phân biệt các loại hiệu quả

Thứ nhất là hiệu quả kinh tế, xã hội, kinh tế - xã hội và kinh doanh

- Hiệu quả kinh tế: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các mục tiêu kinh tế (tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập quốc dân,…).

- Hiệu quả xã hội: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định (giải quyết công ăn, việc làm, nâng cao phúc lợi xã hội...

- Hiệu quả kinh tế - xã hội: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định (tốc độ tăng trưởng kinh tế, tổng sản phẩm quốc nội, thu nhập quốc dân, giải quyết việc làm...)

- Hiệu quả kinh doanh: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh xác định.

Thứ hai, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh doanh

- Hiệu quả đầu tư: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đầu tư xác định.

- Hiệu quả kinh doanh: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh xác định.

Thứ ba, hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả từng lĩnh vực

- Hiệu quả kinh doanh tổng hợp: phản ánh trình độ lợi dụng mọi nguồn lực để đạt mục tiêu của toàn doanh nghiệp hoặc từng bộ phận của nó.

- Hiệu quả lĩnh vực hoạt động: phản ánh trình độ lợi dụng một nguồn lực cụ thể theo mục tiêu đã xác định

Thứ tư, hiệu quả kinh doanh ngắn hạn và dài hạn

Trường Đại học Kinh tế Huế

(17)

12

- Hiệu quả kinh doanh ngắn hạn: hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá ở từng khoảng thời gian ngắn như tuần, tháng, quý, năm...

- Hiệu quả kinh doanh dài hạn: hiệu quả kinh doanh được xem xét, đánh giá trong khoảng thời gian dài

1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh

Sự lựa chọn đúng đắn sẽ mang lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi ích nhất. Giai đoạn phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc và nhường chỗ cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: sự tăng trưởng kết quả kinh tế của sản xuất chủ yếu nhờ vào việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ cấu kinh tế..., nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế. Nói một cách khái quát là nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu.

Trong điều kiện khan hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Tuy nhiên sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong các cơ chế kinh tế khác nhau là không giống nhau. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, việc lựa chọn kinh tế thường không đặt ra cho cấp doanh nghiệp. Mọi quyết định kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? đều được giải quyết từ một trung tâm duy nhất (cấp giao chỉ tiêu kế hoạch). Doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình theo sự chỉ đạo từ trung tâm đó và vì thế mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là hoàn thành kế hoạch nhà nước giao. Do những hạn chế nhất định của cơ chế kế hoạch hóa tập trung mà không phải chỉ là vấn đề các doanh nghiệp ít quan tâm tới hiệu quả hoạt động kinh tế của mình mà trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch bằng mọi giá. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao hiệu quả kinh doanh của hoạt động sản xuất là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(18)

13

1.2.4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại

Việc đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất thiết thực đối với các ngân hàng thương mại. Đánh giá hiệu quả kinh doanh cần dựa trên các quan điểm cơ bản sau:

1.2.4.1. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải gắn với chất lượng hoạt động kinh doanh và tính bền vững của hiệu quả kinh doanh.

Tính bền vững của hiệu quả kinh doanh biểu hiện ở hiệu quả lâu dài và được quyết định bởi chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là một trong những thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (Phạm Công Đoàn & Nguyễn Cảnh Lịch, 2004). Tuy nhiên, lợi nhuận cao cũng không phải luôn đồng nghĩa doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt. Khi xem xét đến lợi nhuận, phần nhiều ý kiến thường chú ý đến mặt lượng, tức là xem doanh nghiệp lãi/lỗ bao nhiêu, tăng trưởng so với năm trước thế nào…Trong khi đó yếu tố rất quan trọng là tính bền vững của lợi nhuận (lợi nhuận có tăng trưởng ổn định qua các năm không, tỷ trọng đóng góp của hoạt động kinh doanh chính trong lợi nhuận của doanh nghiệp) lại thường bị xem nhẹ. Các thu nhập bất thường có thể mang lại lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng không có gì đảm bảo mức lợi nhuận như vậy sẽ được duy trì lâu dài, thậm chí năm trước đang lãi lớn nhưng năm sau có thể thua lỗ…Bên cạnh những yếu tố thuận lợi từ hoạt động kinh doanh thì một số doanh nghiệp có được lợi nhuận cao trong ngắn hạn là do các khoản đầu tư tài chính, bất động sản…ngoài hướng kinh doanh chính mang lại. Tuy nhiên, lợi nhuận không phải là tất cả (Đặng Đình Đào & Hoàng Đức Thân, 2012) do đó, khi đánh giá doanh nghiệp không thể chỉ nhìn vào lợi nhuận mà phải phân tích nguồn gốc của các khoản lợi nhuận đó. Lợi nhuận chỉ tăng trưởng bền vững khi nó dựa trên chất lượng hoạt động kinh doanh và sự tăng trưởng từ hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh hiện tại thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng. Những doanh nghiệp có lợi nhuận cao, tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi, sẽ là những doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh ổn định có sức chống đỡ tốt với suy thoái và có cơ sở cho phát triển bền vững.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(19)

14

1.2.4.2. Kết quả kinh doanh và mức độ sử dụng các yếu tố đầu vào là cơ sở tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả SXKD của doanh nghiệp, là khoản chênh lệch giữa doanh thu mà doanh nghiệp thu được với các khoản chi phí bỏ ra để có được các khoản doanh thu đó. Chính vì vậy, có thể xem lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, là thước đo cơ bản phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở xác định hiệu quả của quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường tuy mỗi giai đoạn có những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể khác nhau (Phạm Công Đoàn & Nguyễn Cảnh Lịch, 2004), song các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể mà doanh nghiệp đề ra trong từng thời kỳ đều phục vụ cho mục đích cuối cùng là tạo ra lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh và phát triển bền vững. Trong quá trình hoạt động SXKD, doanh nghiệp chuyển đổi các yếu tố đầu vào thành các sản phẩm và dịch vụ. Do đó, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần phải gắn chỉ tiêu lợi nhuận với mức độ sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra lợi nhuận. Yếu tố đầu vào của doanh nghiệp bao gồm vốn, lao động, máy móc thiết bị, nhà xưởng. Tùy đặc điểm SXKD mà mỗi quá trình sản xuất kinh doanh cần những yếu tố đầu vào riêng. Hiệu quả của doanh nghiệp chỉ được đánh giá là cao khi doanh nghiệp đạt được lợi nhuận ở mức cao với chi phí về các yếu tố đầu vào thấp. Để giảm thiểu tối đa chi phí SXKD nhằm tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào. Điều này giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí nguồn lực, tăng năng lực sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, dẫn tới đạt mức lợi nhuận cao (Nguyễn Văn Công, 2009).

1.2.4.3. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần đặt hiệu quả kinh doanh và lợi ích của doanh nghiệp trong quan hệ với hiệu quả kinh doanh và lợi ích của các đối tác trong chuỗi cung ứng.

Một sản phẩm hoặc một dịch vụ đến tay khách hàng phải trải qua nhiều công đoạn từ đảm bảo nguyên vật liệu đầu vào, sản xuất sản phẩm đến phân phối sản phẩm, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng… với những doanh nghiệp khác nhau tham gia thực hiện. Các doanh nghiệp tham gia một cách trực tiếp hay gián tiếp vào việc sản xuất và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm sản xuất

Trường Đại học Kinh tế Huế

(20)

15

và đưa sản phẩm hay dịch vụ tới tay người tiêu dùng tạo ra chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng không chỉ gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp các nguồn lực đầu vào mà còn nhà phân phối, nhà kinh doanh dịch vụ vận chuyển và kho bãi, người bán lẻ và bản thân người tiêu dùng. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều không thể đứng ngoài chuỗi cung ứng, không doanh nghiệp nào có thể tự mình làm tất cả các công đoạn từ sản xuất đến khi đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Để đảm bảo tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp phải liên kết lại, mỗi doanh nghiệp chuyên môn hóa theo công đoạn sản xuất, dịch vụ để đưa sản phẩm cuối cùng đến người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng thuộc một ngành hàng nào đó có mối quan hệ

"cộng sinh" với nhau. Do đó, khi phân tích đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp phải đặt doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác trong chuỗi cung ứng. Một mặt, phải quan tâm đến các lợi ích kinh tế mang lại cho doanh nghiệp, mặt khác phải quan tâm đến lợi ích của doanh nghiệp khác trong chuỗi cung ứng. Chỉ khi nào gắn kết được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh của toàn xã hội thì hoạt động của doanh nghiệp mới thực sự được coi là hiệu quả (Nguyễn Văn Công, 2009).

1.2.5. Các nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh của NHTM 1.2.5.1. Nhóm nhân tố bên trong

a) Lực lượng lao động

Trong sản xuất kinh doanh, lực lượng lao động có thể sáng tạo ra công nghệ, kỹ thuật mới và đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao động sáng tạo ra sản phẩm mới với kiểu dáng phù hợp với cầu của người tiêu dùng, đồng thời nghiên cứu sử dụng vật liệu mới thay thế các vật liệu truyền thống đang ngày càng đắt đỏ do khan hiếm. Lao động của con người còn có thể sáng tạo ra cách thức làm ăn mới rút ngắn chu kỳ kinh doanh, giảm thiểu sử dụng nguồn lực…, lực lượng lao động tác động trực tiếp năng suất lao động, đến trình độ sử dụng các nguồn lực khác nên tác động trực tiếp và quyết định hiệu quả kinh doanh.

b) Công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật

Trường Đại học Kinh tế Huế

(21)

16

Công nghệ quyết định năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Công nghệ kỹ thuật phát triển nhanh chóng, chu kỳ công nghệ ngày càng ngắn hơn và tính chất ngày càng hiện đại hơn. Doanh nghiệp phải tìm ra giải pháp đầu tư đúng đắn, chuyển giao công nghệ phù hợp với trình độ tiên tiến của thế giới, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động làm chủ được công nghệ kỹ thuật hiện đại để tiến tới chỗ ứng dụng kỹ thuật ngày càng tiên tiến, sáng tạo công nghệ kỹ thuật mới…, làm cơ sở nâng cao hiệu quả kinh doanh.

c) Nhân tố quản trị doanh nghiệp

Quản trị tác động đến việc xác định hướng đi đúng đắn cho doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh ngày càng biến động. Muốn tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Các lợi thế về chất lượng và sự khác biệt hóa sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng đảm bảo cho doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào nhãn quan và khả năng quản trị của các nhà quản trị doanh nghiệp.

d) Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin

Thông tin được coi là hàng hóa, là đối tượng kinh doanh và nền kinh tế thị trường hiện nay là nền kinh tế thông tin hóa. Để đạt được thành công khi kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, các doanh nghiệp rất cần nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường hàng hóa, về công nghệ kỹ thuật, về người mua, về các đối thủ cạnh tranh… Ngoài ra, doanh nghiệp còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các doanh nghiệp khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông tin về các thay đổi trong các chính sách kinh tế của Nhà nước và các nước khác có liên quan… Tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh doanh lại vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình thu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin.

e) Nhân tố tính toán kinh tế

Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỉ số giữa kết quả đạt được và hao phí các nguồn lực để đạt kết quả đó. Nếu xét trên phương diện giá trị và sử dụng phạm trù lợi nhuận với ý nghĩa là kết quả và phạm trù chi phí là cái bị hao phí sẽ có: Theo công

Trường Đại học Kinh tế Huế

(22)

17

thức này, cái gì là lợi nhuận thì không là chi phí và ngược lại. Điều này có nghĩa là kết quả và hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào thế nào là lợi nhuận hoặc chi phí và trong điều kiện nào là lợi nhuận hoặc chi phí. Kinh tế học đã khẳng định tốt nhất là sử dụng phạm trù lợi nhuận kinh tế vì lợi nhuận kinh tế mới là lợi nhuận “thực”, kết quả được đánh giá bằng lợi nhuận kinh tế mới là kết quả “thực”. Song muốn xác định được lợi nhuận kinh tế thì phải xác định được chi phí kinh tế. Phạm trù chi phí kinh tế phản ánh chi phí

“thực”, chi phí sử dụng tài nguyên. Đáng tiếc là đến nay, khoa học chưa tính toán được chi phí kinh tế và lợi nhuận kinh tế mà chỉ sử dụng phạm trù chi phí tính toán và dô đó chỉ xác định được lợi nhuận tính toán.

1.2.5.2. Nhóm nhân tố bên ngoài a) Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý gắn với các hoạt động ban hành và thực thi luật pháp từ các bộ luật đến các văn bản dưới luật. Mọi quy định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì môi trường pháp lý tạo ra “sân chơi” để các doanh nghiệp cùng tham gia kinh doanh, vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác với nhau nên việc tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh là rất quan trọng.

Môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động kinh doanh của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả và hiệu quả riêng mà còn phải chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội.Môi trường pháp lý đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, cạnh tranh nhau một các lành mạnh. Tính nghiêm minh của luật pháp thể hiện trong môi trường kinh doanh thực tế ở mức độ nào cũng tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật, kinh doanh trên thị trường quốc tế doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động của mình trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó.

b) Môi trường kinh tế

Trường Đại học Kinh tế Huế

(23)

18

Môi trường kinh tế có vai trò rất quan trọng, quyết định đến việc hình thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế gồm có:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định sẽ làm cho thu nhập của tầng lớp dân cư tăng dẫn đến sức mua hàng hóa và dịch vụ tăng lên. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng tạo nên sự thành công trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định kéo theo hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, khả năng tích tụ và tập trung sản xuất cao.

- Tỷ giá hối đoái: Đây là nhân tố tác động nhanh chóng và sâu sắc với từng quốc gia và từng doanh nghiệp nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở cửa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm trên thị trường nội địa. Các doanh nghiệp trong nước mất dần cơ hội mở rộng thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá dẫn đến xuất khẩu tăng cơ hội sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước tăng, khả năng cạnh tranh cao hơn ở thị trường trong nước và quốc tế bởi khi đó giá bán hàng hóa trong nước giảm hơn so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài.

- Lãi suất cho vay của ngân hàng: Nếu lãi suất cho vay cao dẫn đến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp cao, điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhất là khi so với doanh nghiệp có tiềm lực vốn sở hữu mạnh.

- Lạm phát: Lạm phát cao các doanh nghiệp sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh đặc biệt là đầu tư tái sản xuất mở rộng và đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất của doanh nghiệp vì các doanh nghiệp sợ không đảm bảo về mặt hiện vật các tài sản, không có khả năng thu hồi vốn sản xuất hơn nữa, rủi ro kinh doanh khi xẩy ra lạm phát rất lớn.

- Các chính sách kinh tế của nhà nước: Các chính sách phát triển kinh tế của nhà nước có tác dụng cản trở hoặc ủng hộ lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có khi một chính sách kinh tế của nhà nước tạo cơ hội đối với doanh nghiệp này nhưng làm mất cơ hội cho doanh nghiệp khác

c) Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng

Trường Đại học Kinh tế Huế

(24)

19

Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước… cũng như sự phát triển của giáo dục và đào tạo… đều là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh ở khu vực có hệ thống giao thông thuận lợi, điện, nước đầy đủ, dân cư đông đúc và có trình độ dân trí cao sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, giảm chi phí kinh doanh… và do đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.

1.2.6. Hệ thống chỉ tiêu và tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh của NHTM 1.2.6.1. Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh

Các hệ số tài chính là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong đánh giá, phân tích và phản ánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở cấp ngành và cấp quản lý của chính phủ. Mỗi hệ số cho biết mối quan hệ giữa hai biến số tài chính qua đó cho phép phân tích và so sánh giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng và phân tích xu hướng biến động của các biến số này theo thời gian. Có nhiều loại hệ số tài chính được sử dụng để đánh giá các khía cạnh hoạt động khác nhau của một ngân hàng, các hệ số tài chính này bao gồm các tỷ số phản ánh khả năng sinh lợi, các tỷ số phản ánh hiệu quả hoạt động và các tỷ số phản ánh rủi ro tài chính của một ngân hàng.

a) Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời – phản ánh tính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh – theo thông lệ quốc tế thường được phản ánh thông qua các chỉ tiêu sau: thu lãi biên ròng (NIM), thu ngoài lãi biên ròng (NOM), thu nhập hoạt động biên (TNHĐB), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS), thu nhập ròng trên tổng tài sản (ROA) và thu nhập ròng trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE).

NIM = (Tổng thu nhập – tổng chi phí) / Tổng tài sản có sinh lời

NOM = (Tổng thu nhập ngoài lãi – tổng chi phí ngoài lãi) / Tổng tài sản có TNHĐB = (Tổng thu hoạt động – tổng chi phí hoạt động) / Tổng tài sản có EPS = Lợi nhuận sau thuế / Tổng số cổ phiếu thường hiện hành

ROA = Lợi nhuận sau thuế / Tổng tài sản có ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu

Trường Đại học Kinh tế Huế

(25)

20

Tỷ lệ thu lãi biên ròng (NIM), thu ngoài lãi biên ròng (NOM), thu nhập hoạt động biên (TNHĐB) phản ánh năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu từ các khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi trả lãi tiền gửi, những khoản vay trên thị trường tiền tệ, tiền lương nhân viên và phúc lợi). Tỷ lệ thu nhập lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp. Trái lại tỷ lệ thu ngoài lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị và chi phí tổn thất tín dụng). Còn thu nhập trên cổ phiếu (EPS) đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện hành đang lưu hành.

ROA là một chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tính hiệu quả quản lý. Nó chỉ ra rằng khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt động và đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng, nếu mức ROA thấp có thể là kết quả của một chính sách đầu tư hay cho vay không năng động hoặc có thể chi phí hoạt động của ngân hàng quá mức. Ngược lại, mức ROA cao thường phản ánh kết quả của hoạt động hữu hiệu, ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các hạng mục trên tài sản trước những biến động của nền kinh tế.

ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng. Nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng (tức là chấp nhận rủi ro để hy vọng có được thu nhập ở mức hợp lý). Chỉ tiêu này cũng được sử khá phổ biến trong phân tích hiệu quả hoạt động nhằm phản ánh hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu.

Ngoài ra, trong đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng còn xem xét mỗi quan hệ giữa chỉ tiêu ROA và ROE vì trên thực tế hai chỉ tiêu này phản ảnh sự đánh đổi cơ bản giữa rủi ro và thu nhập. Chính điều này cho thấy một ngân hàng có thể có ROA thấp nhưng vẫn có thể đạt được ROE khá cao do họ sử dụng đòn bẩy tài chính lớn.

Trường Đại học Kinh tế Huế

(26)

21

b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí

Với chiến lược tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng cách giảm chi phí hoạt động, tăng năng suất lao động trên cơ sở tự động hóa và nâng cao trình độ nhân viên. Bởi vậy, các thước đo phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng và năng suất lao động của nhân viên gồm các chỉ tiêu sau:

- Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: là một thước đo phản ánh mỗi quan giữa đầu vào (tử số) và đầu ra (mẫu số) hay nói cách khác nó phản ánh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng.

- Năng suất lao động (Thu nhập hoạt động/Số nhân viên làm việc đầy đủ thời gian): phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng.

- Tổng thu hoạt động/tổng tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu hệ số này lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản (danh mục đầu tư) một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.

c) Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính

Ngoài việc quan tâm đến việc nâng cao giá trị cổ phiếu và đẩy mạnh khả năng sinh lời, thông thường trong hoạt động của mình các ngân hàng thương mại cũng thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ những rủi ro mà họ phải đối mặt. Trong một nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, khiến các nhà quản trị ngân hàng tập trung nhiều hơn vào công việc kiểm soát và đo lường rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đó là: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro phá sản và rủi ro thu nhập.

- Tỷ lệ nợ xấu (nợ xấu/tổng cho vay và cho thuê): chỉ tiêu phản ánh chất lượng của tín dụng, chỉ số này càng nhỏ thể hiện chất lượng tín dụng càng cao.

- Tỷ lệ cho vay (cho vay ròng/tổng tài sản): phản ánh phần tài sản có được phân bổ vào những loại tài sản có tính thanh khoản kém. Như vậy tỷ lệ này cho thấy, việc tăng cường sử dụng nguồn vốn vay rất có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu như nhu cầu rút tiền của công chúng tăng và chất lượng của các khoản cho vay giảm.

- Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất trong

Trường Đại học Kinh tế Huế

(27)

22

một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể sẽ rơi vào tình trạng bất lợi và thua lỗ có thể xảy ra nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi quy mô vốn nhạy cảm với lãi suất vượt quá tài sản nhạy cảm với lãi suất, thua lỗ chắc chắn xảy ra nếu lãi suất tăng.

- Tỷ lệ đòn bẩy tài chính (tổng tài sản/tổng vốn chủ sở hữu): chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng giá trị tài sản được tạo ra trên cơ sở 1 đồng vốn chủ sở hữu và ngân hàng phải dựa vào nguồn vay nợ là bao nhiêu. Trên thực tế cho thấy tỷ lệ này trung bình khoảng trên 15 lần, nhưng vì vốn chủ có chức năng bù đắp thua lỗ nên tỷ lệ này càng lớn thì rủi ro phá sản của ngân hàng càng cao.

Ngoài các nhóm chỉ tiêu trên, trong phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng còn sử dụng nhiều hệ số tài chính khác như: tổng dự nợ/vốn huy động (phản ánh hiệu quả đầu tư của một đồng vốn huy động) hay chỉ tiêu vốn huy động/vốn tự có (phản ánh khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế)...

Như vậy, để tối đa hóa lợi nhuận và đen lại hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của mình các ngân hàng thương mại cần chú ý và kiểm soát hợp lý các chỉ tiêu như: quy mô ngân hàng (ROA và ROE); kiểm soát chi phí (chi phí hoạt động/ tổng thu hoạt động);

cơ cấu tiền gửi; đòn bảy tài chính; mở rộng các dịch vụ thu phí; tăng trưởng về tài sản, tiền gửi và các khoản cho vay. Tuy nhiên không nên coi tiêu chí tăng trưởng về tài sản, tiền gửi và các khoản cho vay như là một chỉ tiêu tốt cho lợi nhuận vì sự tăng trưởng quá mức có thể dẫn tới tình trạng mất khả năng kiểm soát, làm chi phí hoạt động nhanh hơn tổng nguồn thu.

Tóm lại, trong phân tích hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay, thì các tỷ số tài chính vẫn được sử dụng khá phổ biến vì chúng khá đơn giản và tương đối dễ hiểu trong phân tích, tuy nhiên chính mức độ đơn giản của nó có thể trở thành vấn đề khá phức tạp nếu các nhà quản lý cố gắng đưa ra một bức tranh tổng thể khi kết hợp nhiều mặt, nhiều khía cạnh hoạt động khác nhau của ngân hàng. Vì mỗi tỷ số chỉ cho biết hay đánh giá mỗi quan hệ tỷ lệ giữa hai biến số cụ thể, không có một tỷ số nào cho chúng ta các kết luận tổng quát về tình trạng của một ngân hàng, do đó, trong việc đánh giá tổng quan thực trạng của một ngân hàng cần phải xem xét một loạt các chỉ số. Việc xem xét đồng thời hoặc việc tổng hợp các kết quả phân tích từ các tỷ số khác

Trường Đại học Kinh tế Huế

(28)

23

nhau có thể đưa đến nguy cơ nhầm lẫn trong việc đánh giá hoạt động của các ngân hàng vì các chỉ số này chỉ là những chỉ số phân tích đơn.

1.3. Các nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước 1.3.1. Các nghiên cứu nước ngoài

Nhiều tác giả sử dụng ROA để đo lường lợi nhuận trong các nghiên cứu của mình như Pasiouras & Kosmidou (2007); Athanasoglou & cộng sự (2008) and Olweny &

Shipho (2011). Theo Elouali Jaouad & Oubdi Lahsen (2018), tác giả thực hiện nghiên cứu trên 6 ngân hàng ở Morocco trong giai đoạn 2010-2016 và kết quả hiệu quả hoạt động của ngân hàng dựa trên lợi nhuận gồm ROA, ROE (biến phụ thuộc) và các tổ hợp biến động lập bao gồm: Yếu tố quyết định của ngân hàng gồm:quy mô, an toàn vốn, tính thanh khoản, tính hiệu quả của hoạt động quản lý; cấu trúc thị trường; quản trị ngân hàng bao gồm: ban quản trị, các cuộc họp ban quản trị, quyền kiêm nhiệm, các giám đốc độc lập; các yếu tố quyết định mang tính vĩ mô gồm: GDP/tốc độ tăng trưởng vốn, lạm phát. Kết quả từ phân tích dữ liệu bảng cho thấy chi phí/thu nhập có ảnh hưởng cao và ngược chiều với hoạt động của ngân hàng, đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra một mối liên hệ tác động cùng chiều giữa tổng tài sản và lợi nhuận của ngân hàng được đo lường bởi ROA. Các yếu tố an toàn vốn và tính thanh khoản; cấu trúc thị trường; quản trị ngân hàng và các yếu tố vĩ mô không có tác động đáng kể đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tadesse Wubie Abate1 & Enyew Alemaw Mesfin (2019) nghiên cứu 9 trên 18 ngân hàng đang hoạt động trong giai đoạn 2007 - 2016 tại Ethiopia. Tác giả các cho thấy nhiều nghiên cứu trước sử dụng NIM, ROA, ROE để đo lường lợi nhuận và cũng rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng ROA là tỷ lệ chính để đánh giá lợi nhuận của ngân hàng bởi vì ROA không bị bóp méo bởi hệ số vốn chủ sở hữu cao trong khi đó ROE lại coi nhẹ các rủi ro về đòn bẩy tài chính, hay nói cách khác ROE không đề cập đến các khoản nợ. Nghiên cứu cũng sử dụng công thức tính ROA = lợi nhuận thuần/tổng tài sản. Nhóm tác giả sử dụng mô hình hồi quy hiệu ứng cố định (FE) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (RE) dựa trên thử nghiệm Hausman. Nghiên cứu chỉ ra rằng cả hai yếu tố bên trong và bên ngoài đều là nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Đòn bẩy, an toàn vốn và tính thanh khoản có ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến lợi nhuận ngân hàng trong khi tính hiệu quả của hoạt động quản lý, GDP, làm phát, tỷ lệ lãi suất, tỷ lệ

Trường Đại học Kinh tế Huế

(29)

24

lạm phát hàng năm và chênh lệch lãi suất ảnh hưởng ngược chiều đến lợi nhuận của ngân hàng. Nhân tố còn lại là quy mô cũng có tác động đến lợi nhuận của ngân hàng.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến 10 ngân hàng lớn thuộc nhà nước và tư nhân ở Indonesia” trong giai đoạn 2004-2013 do Rina Adi Kristianti và Yovin (2016) thực hiện nghiên cứu. Tác giả lựa chọn biến phụ thuộc là ROA, các biến độc lập là: tỉ lệ an toàn vốn, tính hoạt động hiệu quả, lãi cận biên, nợ xấu, tỷ lệ dư nợ tín dụng/vốn huy động.

Kết quả hồi qui cho thấy các nhân tố đều ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng trong đó hiệu quả hoạt động, lãi cận biên và nợ xấu ảnh hưởng đáng kể đến ngân hàng thuộc nhà nước còn tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi lại có tác động đến ngân hàng tư nhân. Ong Tze San and Teh Boon Heng (2013) tiến hành lựa chọn nghiên cứu 9 ngân hàng thương mại nội địa và 11 ngân hàng nước ngoài ở Malaysia trong giai đoạn 2003 – 2009. Nhóm tác giả lựa chọn biến phụ thuộc lợi nhuận được đo lường bằng ROA, ROE, NIM (net interest margin), các biến độc lập bao gồm các biến bên trong ngân hàng và các biến vĩ mô: tỷ lệ tổng nguồn vốn trên tổng tài sản (EA), tỷ lệ dự phòng tổn thất cho vay và tỷ lệ cho vay gộp (LLR), tỷ lệ chi phí và thu nhập (COSR), tỷ lệ tài sản lưu động trên tiền gửi và tài trợ ngắn hạn (LIQ), quy mô ngân hàng, GDP, CPI (tỷ số giá tiêu dùng). Kết quả cho thấy EA là yếu tố quyết định lớn trong mô hình ROA và có ảnh hưởng cùng chiều lên lợi nhuận của các ngân hàng thương mại tại Malaysia. Đây cũng là một lần khẳng định điều này khi có nhiều nghiên cứu trước của Demirguc-Ku

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Cho vay KHCN là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho các khách hàng là cá nhân: Đó là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân

- Dân số đông -> thị trường tiêu thụ lớn; thu nhập tăng và chất luợng cuộc sống được nâng cao nên -> sức mua đang tăng lên. - Nguồn lao động dồi dào, có

Kết quả ước lượng cho thấy tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: sử dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh; sử dụng công nghệ

Trong thời gian thực tập và được trải nghiệm thực tế tại ngân hàng Đông Á – Chi nhánh Huế, tôi đã quyết định chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách

Kinh tế chia sẻ và công nghệ đã tạo điều kiện cho nhiều thương hiệu mới với hình thức kinh doanh tập trung vào tiêu dùng cộng tác ra đời.

Thực trạng chất lượng cuộc sống dân cư huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai - Tỉnh Đồng Nai: là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá so với các tỉnh thành khác trong toàn vùng Đông Nam

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 KẾT LUẬN Nghiên cứu đã lựa chọn mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên - REM để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố quy mô doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng doanh nghiệp,

Trước tốc độ thay đổi nhanh chóng của thời đại, tính năng động của các nền kinh tế và thị trường, sự phát triển như vũ bão của công nghệ cùng với sự phân khúc thị trường ngày càng rõ