• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ"

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Tập 167, số 07, 2017

Tập 167, Số 07, 2017

(2)

T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

Môc lôc Trang

Nguyễn Đại Đồng - Hoạt động khai thác mỏ ở Lào Cai dưới thời Gia Long và Minh Mệnh 3 Dương Thị Huyền - Thương mại châu Âu và những tác động đến tình hình chính trị Đàng Trong thế kỷ XVI- XVIII 9 Trần Thị Nhung - Miêu tả tình tiết trong Truyện Kiều và Kim Vân Kiều Truyện 15 Nguyễn Thị Hải Phương - Bản chất của ngôn từ văn học (nghĩ từ bài viết Bản chất xã hội, thẩm mỹ của diễn

ngôn văn học của Trần Đình Sử) 21

Phạm Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Thu Trang, Ngô Thị Lan Anh - Ảnh hưởng của lễ hội Vu Lan đến đời

sống đạo đức của nhân dân huyện Quốc Oai, Hà Nội 25

Phạm Thị Ngọc Anh - Hình tượng văn thủy ba trong mỹ thuật cổ Việt Nam và các ứng dụng trên sản phẩm mỹ

thuật tạo hình hiện đại 31

Trương Thị Phương - Giải pháp ứng dụng hiệu quả thông tin đồ họa trên báo điện tử 37 Phạm Thị Nhàn - Ẩn dụ từ vị giác “ngọt” trong tiếng Hán hiện đại 43 Lương Thị Thanh Dung – Sự khác nhau về kết cấu chữ Nôm của văn bản Thiền tông bản hạnh giữa bản in

năm 1745 và bản in năm 1932 49

Nguyễn Thị Quế, Phạm Phương Hoa - Đánh giá sự phù hợp của giáo trình New English File đối với việc

giảng dạy sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên 55 Hoàng Thị Thắm - Nghiên cứu về siêu nhận thức trong nghe tiếng Anh của sinh viên chương trình tiên tiến tại

Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 61

Nguyễn Quỳnh Trang, Dương Công Đạt, Vũ Kiều Hạnh - Thiết kế chương trình bổ trợ nói cho học sinh lớp

10 Trường Trung học Phổ thông Thái Nguyên 67

Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay 73 Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và vấn đề phát triển năng lực nghiên cứu khoa

học cho học sinh trong dạy học Sinh thái học ở trung học phổ thông 79

Trần Thị Phương Thảo, Nguyễn Thị Hoa Hồng - Nâng cao tính ứng dụng trong xây dựng chương trình đào

tạo đại học tại Việt Nam – bài học từ chương trình giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng (POHE) 85 Phạm Thị Bích Thảo, Nguyễn Thành Trung - Lựa chọn bài tập thể lực chuyên môn nâng cao kết quả học tập

chạy cự ly ngắn cho sinh viên khóa 14 Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên 91 Lê Huy Hoàng, Nguyễn Thị Huyền, Nguyễn Thị Ngân, Vũ Thị Vân Anh - Phát triển năng lực sử dụng ngôn

ngữ hóa học của học sinh phổ thông trong dạy học các nội dung về hóa học hữu cơ chương trình hóa học lớp 12

nâng cao 97

Nguyễn Trọng Du - Phỏng vấn ‘nhóm tập trung’: một phương pháp thu thập dữ liệu hiệu quả với các nghiên

cứu khoa học xã hội 103

Đỗ Thị Thái Thanh, Trương Tấn Hùng, Đào Ngọc Anh - Xây dựng hồ sơ năng lực bồi dưỡng giáo viên thể

dục các trường trung học phổ thông các tỉnh miền núi phía Bắc 109

Nguyễn Ngọc Bính, Dương Tố Quỳnh, Nguyễn Văn Thanh - Thực trạng sử dụng hệ thống phương tiện chuyên môn trong giảng dạy môn bóng chuyền cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh -

Đại học Thái Nguyên 115

Lê Văn Hùng, Nguyễn Nhạc - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ bóng đá nam sinh viên

Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 119

Journal of Science and Technology

167 (07)

N¨m

2017

(3)

Nguyễn Văn Dũng, Lê Văn Hùng - Một số giải pháp giúp sinh viên lựa chọn môn học tự chọn trong chương trình giáo dục thể chất dành cho sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường Đại học Sư phạm – Đại học

Thái Nguyên 125

Nguyễn Văn Chiến, Nguyễn Trường Sơn, Đỗ Như Tiến - Một số kết quả ban đầu trong việc áp dụng CDIO

để xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tại Đại học Thái Nguyên 131 Đỗ Quỳnh Hoa - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng lối sống cho sinh viên Trường Đại học

Công nghệ Thông tin và Truyền thông – Đại học Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay 135 Phạm Văn Hùng, Nguyễn Huy Hùng - Đánh giá đầu ra của chương trình đào tạo qua mức độ đáp ứng chuẩn

đầu ra của sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp 141

Ngô Thị Lan Anh, Nguyễn Thị Thu Hiền - Yêu cầu khách quan của việc đổi mới quy trình kiểm tra đánh giá

kết quả học tập môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông nước ta hiện nay 147 Trương Thị Thu Hương, Trương Tuấn Anh - Ứng dụng dạy học dự án trong đào tạo giáo viên kỹ thuật tại

Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - Đại học Thái Nguyên 153

Dương Quỳnh Phương, Trần Viết Khanh, Đồng Duy Khánh - Những nhân tố chi phối đến văn hóa tộc người

và văn hóa cộng đồng dân tộc dưới góc nhìn địa lí học 159

Nguyễn Thị Thanh Tâm, Trần Quyết Thắng, Đào Thị Hương - Đánh giá mức độ hài lòng của khách du lịch đối với đội ngũ hướng dẫn viên du lịch tại một số công ty kinh doanh lữ hành trên địa bàn thành phố Thái

Nguyên 165

Nguyễn Văn Chung, Đinh Hồng Linh - Các yếu tố thành công cho website thương mại điện tử: trường hợp

doanh nghiệp du lịch nghỉ dưỡng vừa và nhỏ ở Quảng Bình 171

Đặng Thị Bích Huệ - Dự án hỗ trợ nông nghiệp, nông dân và nông thôn tỉnh Tuyên Quang và các tác động đến

đời sống người dân trên địa bàn xã Minh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang 177 Lương Văn Hinh, Lương Trung Thuyền - Nghiên cứu biến động giá đất ở trên địa bàn thị trấn Thất Khê,

huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2011 – 2015 183 Nguyễn Tú Anh, Nguyễn Thị Lan Anh, Nguyễn Thành Minh - Nghiên cứu các mối quan hệ cung ứng dịch

vụ quản trị hoạt động có dịch vụ trách nhiệm xã hội: trường hợp điển cứu tại các công ty dịch vụ vận tải chở

khách vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 189

Nguyễn Thị Thu Thương, Hoàng Ngọc Hiệp - Thực trạng quản lý vốn ngân sách nhà nước cho đầu tư phát

triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên 193

Tạ Thị Thanh Huyền, Nguyễn Mạnh Dũng - Tăng cường quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách

nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 199

Nguyễn Thị Kim Huyền - Ứng dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS): kinh nghiệm quốc tế và bài

học cho Việt Nam 205

Nguyễn Thị Nhung, Phan Thị Vân Giang - Tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư

nhân đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 211

Phạm Thuỳ Linh, Phạm Hoàng Linh, Trần Thị Thu Trâm - Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong bối

cảnh hội nhập mới 219

Nguyễn Thị Thu Trang, Trần Bích Thủy - Động lực làm việc của cán bộ công chức xã phường: nghiên cứu

điển hình tại thành phố Thái Nguyên 225

Nguyễn Thu Thủy, Hoàng Thái Sơn - Bài học kinh nghiệm trong quản lý rủi ro thanh khoản đối với Ngân

hàng Thương mại Cổ phần Á Châu 231

Ngô Thúy Hà - Định hướng phát triển dịch vụ tín dụng cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đến năm 2020 237

Đoàn Quang Thiệu - Một số kết quả xây dựng mô hình học tập, thực hành về kế toán doanh nghiệp 243

(4)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

31 HÌNH TƯỢNG VĂN THỦY BA TRONG MỸ THUẬT CỔ VIỆT NAM

VÀ CÁC ỨNG DỤNG TRÊN SẢN PHẨM MỸ THUẬT TẠO HÌNH HIỆN ĐẠI

Phạm Thị Ngọc Anh* Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Trong nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam có rất nhiều đề tài hoa văn trang trí khác nhau như hoa sen, hoa cúc, rồng, mây, sóng nước… nhiều trong số đó vẫn còn được sử dụng phổ biến đến ngày nay, nhưng một số khác thì gần như bị quên lãng. Với mục đích phát huy và bảo tồn mỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ hiện đại, có rất nhiều các nghiên cứu tập trung vào những mẫu hoa văn thất truyền.

Cũng nhằm mục đích đó, bài viết này thực hiện khảo sát và phân tích sự hình thành và chuyển biến của văn thủy ba (sóng nước) qua các thời kỳ và ứng dụng của nó trong các tác phẩm mỹ thuật hiện đại. Kết quả khảo sát cho thấy văn thủy ba là biểu tượng và là hoa văn trang trí có từ lâu đời trong nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam, văn thủy ba không những mang giá trị nghệ thuật mà còn chứa đựng giá trị về tâm linh tôn giáo, chứa đựng quan niệm triết học Phương Đông sâu sắc, nó còn phản ánh sự luân chuyển không ngừng của sự sống trên từng nhịp uốn lượn. Các nhận xét và kết quả của khảo sát sẽ rất có ý nghĩa cho việc tìm hiểu mỹ thuật cổ Việt Nam với đỉnh điểm của hoa văn này dưới thời Lý – Trần có ý nghĩa thực tiễn với việc phát huy và bảo tồn mỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ hiện đại.

Từ khóa: Thủy ba, sóng nước, thủy ba trong nghệ thuật tạo hình, thủy ba Lý - Trần, ứng dụng văn thủy ba trong trang trí.

ĐẶT VẤN ĐỀ *

Hình tượng văn thuỷ ba có một ý nghĩa nhất định trong tâm thức của người Việt, nó hội tụ nhiều yếu tố triết học và tâm linh, đối với người Việt - với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước là đặc trưng thì hình ảnh cây lúa bao giờ cũng gắn liền với nguồn nước. Và như vậy, hình tượng thuỷ ba - sóng nước đã được người dân đẩy lên thành hình tượng nghệ thuật dân gian gắn liền với mỹ thuật Việt Nam.

KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VĂN THỦY BA

Khái niệm chung về văn thủy ba

Trong tiếng Hán Việt, Thuỷ nghĩa là Nước, Ba là Sóng, Thuỷ ba tức là Sóng nước. Ở một khía cạnh khác, thuỷ ba không chỉ là sóng nước đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa là khởi nguồn của sự sống. Vạn vật trong cuộc sống bắt nguồn từ biển cả, những tế bào đầu tiên của sự sống cũng bắt đầu từ biển cả và như vậy thuỷ ba còn là chỉ sự bắt đầu, chỉ một nguồn năng lượng vô tận không bao giờ kết thúc. Thuỷ ba phản ánh sự luân chuyển không ngừng của sự sống, tính bất diệt và khẳng

*Tel: 0917359352; Email: ptnanh@ictu.edu.vn

định cái sôi nổi, nhộn nhịp, rạo rực của các giai điệu hình sin và parabol như sự đi lên và kiên cường của con người chiến thắng thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt.

Tiến sĩ Trần Trọng Dương người đã từng khảo sát thống kê các hình tượng sóng nước - núi non (Sơn Thủy) từ thời Lý- Trần đến đầu Lê sơ- Mạc nhận định rằng 98% các di vật có hình tượng sóng nước núi non đều xuất hiện trong không gian văn hóa Phật giáo thuộc thời Lý Trần. Nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ từng đưa ra một nhận định về giai đoạn này: Mỹ thuật Lý Trần - Mỹ thuật Phật giáo, đây cũng là tên cuốn sách được “Giải thưởng 1998 Hội VNDGVN” của ông do Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế) xuất bản lần đầu năm 1998.

Thủy ba không chỉ xuất hiện ở Việt Nam trên các lăng tẩm vua chúa các thời, trong tranh thờ, trong tranh dân gian, nghệ thuật tuồng…

nó còn xuất hiện phổ biến ở các nước phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan… Thậm chí, chúng cũng xuất hiện trong các hình tượng trang trí của Thiên Chúa giáo. Điều này chứng tỏ đây là một biểu tượng quan trọng trong nghệ thuật tạo hình.

(5)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

32

Dân tộc chúng ta là dân tộc lúa nước, nguồn nước vô cùng quan trọng đối với sự sống của con người. Vị trí của nước bao giờ cũng ở dưới, và các trang trí thủy ba dù là Đông, Tây, kim, cổ đều đặt ở phía dưới bởi ta quan niệm giữa cái âm dương là nước, nước cứ lên đến đâu nó đẩy tất cả những gì của sự sống, tạo sự sinh sôi nảy nở lên đến đó, không bao giờ nước ở bên trên, nước ở bên trên là dìm sự sống, có một nhà thiết kế thời trang đã thiết kế “nước” ở trên cổ áo và đã có sự phản biện rằng thế này thì ngập hết và dìm sự sống, mất đi bản chất của nước... Đặc biệt khi nghiên cứu hiện vật ta thấy tất cả thủy ba đều nằm ở phía dưới các bệ đỡ trang trí trong điêu khắc để chúng nâng những hình tượng, nội dung trang trí khác được thăng hoa lên, ví dụ thủy ba trên các bệ đỡ thời Lý như tượng Adiđà chùa Phật Tích (Bắc Ninh), giao hòa âm dương giữa những hình tượng hoa sen, hoa cúc, rồng, núi là nước, nước lên đến đâu thì các sự sống hiện hữu lên đến đó. Những trang trí thủy ba trên trang phục vua chúa cũng vậy, đều ở vạt, nó nâng và làm nguồn gốc cho những trang trí khác và có ý nghĩa riêng khi xuất hiện trên long bào. Ví dụ, nó tạo yếu tố âm dương của ngọn núi (Thủy ba hình núi), cánh cửa đi vào Địa ngục, và cửa Khai sáng lên thiên đình... “Các long bào không có một long bào nào là không có thủy ba” – PGS, TS, Họa sỹ Đoàn Thị Tình người đã có những nghiên cứu về thủy ba trên trang phục vua chúa nhận xét trong một buổi trao đổi về văn thủy ba. Mỗi long bào của vua là một chương, là bài học, trong đó hội tụ tất cả các tinh hoa về văn hóa, quan điểm của dân tộc, nhắc nhở cái trách nhiệm của nhà vua với đất nước, vậy nên văn thủy ba đặt dưới các vạt áo hay cổ tay ngoài mong ước về một xã hội phồn thịnh sinh sôi cường thịnh thì cũng chính là quan niệm về trách nhiệm và lấy con dân làm gốc vậy.

Giá trị nghệ thuật của thủy ba gắn liền với quan điểm thuyết Âm Dương trong triết học Phương Đông. Việt Nam và các nước phương Đông cũng có sự tương đồng với nhau về nhận thức quan điểm vũ trụ, về nhân sinh quan, điều này đi sâu vào tiềm thức người Phương Đông vì thế hình tượng thủy ba xuất

hiện đưa nền mỹ thuật cổ của Việt Nam lên những nấc thang thăng hoa.

Hình 1. Thủy ba trên áo của tước vương thời Lê - Trịnh, từ sách Trang phục triều Lê - Trịnh Lược sử hình thành văn thủy ba

Nguồn nước là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong đời sống cũng như trong sinh hoạt của người dân nên họ đã sớm thiêng hóa và đưa hình tượng nước vào nghệ thuật tạo hình. Nước vốn không có hình thù cụ thể nên để biểu tượng nước người ta phải sử dụng những hình ảnh tượng trưng, và như vậy không thể có hình tượng nào biểu thị nước rõ ràng hơn bằng hình tượng sóng, bằng những đường nét miêu tả con sóng. Cứ như vậy, hình tượng sóng nước được biến đổi dần dần theo nhận thức cái đẹp của con người và được đưa vào nghệ thuật tạo hình với nhiều hình thức khác nhau. Thủy ba đã ra đời từ đó.

Từ thời sơ sử, hoa văn gốm đã rất phong phú như hoa văn trải, vặn thừng, văn in, văn rải đai, văn khắc vạch. Nổi bật ta thấy dạng hoa văn in và hoa văn khắc vạch chính là tiềm ẩn để tạo nên phong cách thủy ba sau này bởi các đường lượn và nhịp điệu lên xuống của nó.

Quá trình hình thành dạng thức thủy ba mà đỉnh cao là thời Lý – Trần phải trải qua hàng nghìn năm biến đổi và phát triển. Ở thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên và Đồng Đậu tiêu biểu ở chất liệu gốm có các họa tiết hoa văn hình chữ S được xếp song song theo lối bố cục đứng hơi nghiêng. Một dạng hoa văn khác là dạng hoa văn lượn sóng hình Sin, đây là một đường lượn đơn giản chạy ngoằn ngoèo uốn đi uốn lại đều đặn thành một băng trang trí.

Lịch sử hình thành thủy ba không thể không nhắc đến một dạng hoa văn quý giá mà người ta gọi chúng là hoa văn khuông nhạc. Gọi là

(6)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

33 khuông nhạc vì nghệ nhân gốm lúc kẻ vạch

hoa văn đã dùng một vật cứng dẹt, trên đó được chia làm nhiều cạnh nhỏ, nhọn và họ kẻ lên phôi gốm để trang trí trước khi nung. Kết quả việc đó đã tạo nên nhiều đường kẻ song song cách đều nhau giống như khuông nhạc của các bài hát, có lúc là một băng thẳng chạy vòng quanh chu vi của gốm, có lúc lại lượn sóng, uốn lượn đều đặn kiểu hình Sin.

Hình 2. Hoa văn khuông nhạc

Với hình tượng văn thuỷ ba mà đỉnh cao là tạo hình thời Lý - Trần là khuôn thước rực rỡ nhất đánh dấu thời kỳ vàng son của nghệ thuật tạo hình thuỷ ba. Thời kỳ này các môtip thuỷ ba đã được đẩy lên ở mức thành biểu trưng hoàn thiện nhất, đến các thời kỳ sau hình tượng thuỷ ba đã hoá thân thành nhiều môtip hơn. Nhiều khi chúng kết hợp cùng mây gấm, văn khánh tạo nên những đường diềm đặc sắc mà dường như thiếu yếu tố thuỷ ba thì bố cục có vẻ như mất đi một điều gì rất quan trọng quý giá tựa như son không thể thiếu vàng vậy. Đến các thời kỳ sau, thuỷ ba đã đơn giản hơn, chúng đã biến hoá vào cuộc sống lao động thuần nông và giản dị lúc này thuỷ ba thường làm nền cho các bố cục lao động, tượng trưng cho cuộc sống thanh bình mà điển hình là các bức chạm lan can trên đá trắng và đá xanh của chùa Bút Tháp cuối thế kỷ XVIII- kỷ Lê Trịnh.

Trong suốt chiều dài lịch sử, thủy ba đã ra đời và chuyển biến gắn liền với những quan niệm của người dân qua từng thời kỳ, nhưng dù chuyển biến thế nào nó vẫn có những nguyên tắc cơ bản và cái giá trị của nó cũng không hề thay đổi.

CÁC DẠNG VĂN THỦY BA TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỔ

Các dạng thức văn thủy ba

Trải qua các thời kỳ, các nền văn hoá khác nhau thủy ba đã xuất hiện nhiều dạng thức phong phú, tinh tế hơn nhưng phổ biến nhất là các dạng thức sau: Thuỷ ba hình Sin, thủy ba hình nấm và thủy ba hình núi

- Thủy ba hình Sin: Thủy ba hình Sin hay thường gọi đơn thuần là Sóng nước là loại thủy ba uốn lượn dàn ngang doãng nhịp nhàng, có loại đồ án là nhiều lớp sóng cùng bước nhưng độ cao thì khác nhau nhìn cảm giác rất thư thái trang nhã.

- Thủy ba hình nấm: Loại sóng này thắt chân bên dưới nên gọi là thủy ba hình nấm. Loại này có trên đồ án trang trí chân tháp Phổ Minh và tháp Huệ Quang. Bố cục của đồ án sóng hình nấm thời này gần giống với cùng loại thời Lý. Nhất là bố cục của sóng hình nấm ở chân tháp Phổ Minh, chỉ khác nhau ở chỗ đồ án ở tháp Phổ Minh được thể hiện theo lối khắc chìm, ở mặt bằng nhỏ bé giữa hình nấm còn có thêm một số hình xoắn hình hoa.

Còn ở tháp Huệ Quang có độ uốn éo ít hơn và nét đục có phần khỏe khắn hơn [2]. Tại chùa Phật Tích dù là trên bệ tượng Phật, tảng kê chân cột hay trụ búp, dù chỉ một đợt hay tới năm đợt chồng nhau thì đều là sóng thắt chân hình nấm. Mỗi ngọn sóng thường có ba lớp to nhỏ lồng nhau, mô típ sóng thường có từ hai đến ba tầng tạo bởi những chỗ thắt gẫy của đường cong Parabol, cuối ngọn sóng bẻ gấp cong vào để tạo ra chân sóng kề tiếp bên [3].

- Thủy ba hình núi: Đây là loại thủy ba doãng chân có dáng hình như núi. Sóng vẫn lồng nhau ba lớp, nhô cao nhưng kéo dài hơn và các lớp từ trong ra có số tầng là 1,2,3, chân sóng mở ra bắt liền sang sóng bên tạo thành những dây uốn lượn nhịp nhàng theo hình Sin gãy khúc.

Thủy ba hình núi và thủy ba hình nấm mô phỏng các đụn cao. Trong các vẩy to lại có vẩy con theo nhịp điệu bé dần. Điều đặc biệt là đường contour của các vẩy lại có thêm các đường hình Sin độc đáo nên trông rất lộng lẫy và huy hoàng, sự rực rỡ được toát ra với hàm

(7)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

34

ý luân hồi và sức sống nội tại luôn dào dạt, bền bỉ khôn cùng.

Thông thường thuỷ ba hình Sin sẽ kết hợp với một trong hai loại Thủy ba còn lại, chúng tạo nên sự tương phản và hỗ trợ lẫn nhau.

Trong quá trình điền dã tại tháp Phổ Minh (Nam Định) tác giả có lưu giữ được những hình ảnh thủy ba tại đây. Thủy ba hình nấm xuất hiện trên đồ án trang trí chân tháp Phổ Minh, nó là sự kết hợp giữa hai loại thủy ba hình sin và thủy ba hình nấm, ở mặt bằng nhỏ bé giữa hình nấm còn có thêm một số văn xoắn hình hoa.

Hình 3. Thủy ba hình nấm ở tháp Phổ Minh Chu Quang Trứ và Trần Lâm Biền là hai nhà nghiên cứu đưa ra những nhận định đầu tiên:

“Sóng ở đầu thế kỷ XIV còn mang hình nấm như ta thấy trên tháp Phổ Minh, nhưng đến cuối thế kỷ ấy chỉ còn sóng hình núi nằm trên loại sóng uốn lượn nhẹ nhàng và đều đặn mà ta thường thấy dưới chân nhiều mảng chạm”[1]..

Văn thủy ba trong nghệ thuật tạo hình cổ Việt Nam

Trong nghệ thuật kiến trúc

Văn thuỷ ba thường xuất hiện ở chân bệ, cột của các công trình tín ngưỡng. Nó kết hợp với các hoạ tiết hoa lá, sen, mai, cúc… trong điêu khắc gỗ ở hạ lương (đố bậc bước vào) ở tư gia các gia đình quyền quý hoặc quan lại… văn thủy ba trong kiến trúc có nhiều phong cách như phong cách nghệ thuật Tháp Mẫm thế kỷ thứ XII đến XIV, phong cách ở Mỹ Sơn, Khương Mỹ, phong cách ở Đồng Dương. Đến giữa thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, chúng ta lại thấy hình tượng thuỷ ba xuất hiện một cách trang nhã ca ngợi cuộc sống thanh nhàn lạc đạo, thấm nhuần tư tưởng của đạo Phật trong chi tiết kiến trúc lan can đá trang trí chùa Bút Tháp.

Trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam Văn thuỷ ba xuất hiện khá đậm nét trong điêu khắc thời Lý - Trần. Ví dụ “Cột rồng thời Lý” được trang trí bằng hình ảnh đôi rồng trong tư thế bay lên từ sóng nước, với các đụn thuỷ ba chồng lên nhau dày đặc dưới dạng kết hợp các hình thức thủy ba lớp trên lớp dưới ùn ùn tạo lên những lớp núi non trùng điệp và sóng bạc đầu, các đường chạm nổi tinh xảo, ở đây chúng ta bắt nguồn từ sự tích vua Lý Công Uẩn nhìn thấy rồng vàng bay lên khi thuyền vua bắt đầu ra đến vùng sông nước Đại La.

Công trình nổi tiếng cũng được mệnh danh là một trong những tác phẩm điêu khắc cổ đẹp nhất Việt Nam: tượng Adiđà chùa Phật Tích (Tiên Du, Bắc Ninh). Với chất liệu đá xanh nguyên khối và đá nhám bạc, người nghệ sĩ đã tài tình thổi hồn vào đá, toàn bộ phần lớn của bệ tượng được phủ một “lớp áo” Thuỷ ba lộng lẫy với những đường chạm nổi và chạm kênh hết sức tinh xảo, là đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình Thuỷ ba - đó là một trong những môtip khuôn mẫu điển hình của thời kỳ này.

Hình 4. Bệ Tượng Adiđà chùa Phật Tích Trong lễ phục

Trên y phục của vua, văn thuỷ ba thường xuất hiện ở dải gấu của áo long bào, được thêu bằng chỉ kim tuyến trên nền gấm vàng với tiết tấu có dạng thuỷ ba hình núi có tua hình vây rồng màu ngũ sắc nhằm tôn lên tính uy nghiêm của bậc tôn quyền. Với y phục của hoàng hậu, văn thuỷ ba thường xuất hiện ở dải gấu tay áo và được thêu bằng chỉ kim tuyến trên nền lụa bạch hoặc lụa điều thể hiện sự tôn quý. Các hình tượng thuỷ ba trên gấu tay áo hoàng hậu có dạng hình sin thoải thanh mảnh và mềm mại. Ở thời kỳ nhà Nguyễn thì văn thuỷ ba lại xuất hiện dưới gấu áo thanh các dưới dạng Thuỷ ba kết hợp các hình thức xong không lộng lẫy và cầu kỳ như áo long bào.

(8)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

35 Hình 5. Quan phục triều Lê (Phục chế)

NHỮNG ỨNG DỤNG LÊN SẢN PHẨM MỸ THUẬT TẠO HÌNH

Văn thủy ba được cô đọng thành một biểu tượng nó mang giá trị văn hóa và tâm linh của người Việt, ở thời đại nào thủy ba cũng gắn liền với cuộc sống con người, cho đến thời kì hiện đại nó vẫn xuất hiện trên những sản phẩm mỹ thuật tạo hình và mang dấu ấn rất đặc biệt của mỹ thuật Việt Nam. Đến nay văn thuỷ ba đã được cách điệu thành nhiều dạng thức phong phú với lối chạm tạo biến hoá và dễ gắn kết với các hoa văn khác, tạo nên dạng thuỷ ba như hình các con lũ ào ạt chảy như dòng thác cách mạng ở bảo tàng Hồ Chí Minh…

Nhìn ra thế giới, Nhật Bản là nước bốn bề là biển, ảnh hưởng sâu đậm của hình tượng biển và sóng lên các sản phẩm mỹ thuật tạo hình từ thủ công nghiệp cho đến các ngành hiện đại khác như trên vải của các sản phẩm thủ công nghiệp, áo Kimono, trên túi xách tay, ví cầm tay, thủ công mỹ nghệ… luôn đậm nét.

Một công trình kiến trúc của nước Anh là Cung thể thao dưới nước của Thế vận hội mùa hè 2012 tổ chức tại London cũng lấy cảm hứng từ hình ảnh sóng nước. Phần mái của cung thể thao được thiết kế theo đường cong gợn sóng, các hàng ghế của cung được sắp đặt trông như những đợt sóng nhìn rất lạ mắt mà lại hiện đại.

Ở Việt Nam, có Trung tâm hội nghị Quốc gia Việt Nam đặt tại Mỹ Đình – Hà Nội, từ những quan niệm về nguồn nước, sóng nước và ước muốn về một cuộc sống lâu bền đã tạo lên những ý tưởng cho các nhà kiến trúc sư người Đức hình thành lên quần thể Trung tâm hội nghị Quốc gia Việt Nam như mong muốn sự hợp tác quốc tế luôn bền vững trường tồn.

Những ứng dụng khác của họa tiết thủy ba trên ngành dệt và thủ công nghiệp tại Việt

Nam cũng thể hiện rất rõ. Trong những đợt điền dã tại làng lụa Vạn Phúc – Hà Đông, ngoài những hoa văn đặc trưng trên vải như chữ Vạn, chữ Phúc, hoa cúc, lá trúc… xuất hiện trên nền vải thì những họa tiết thủy ba, cách điệu có, vân sóng hình Sin có, kết hợp với hình tượng núi non… cũng được sử dụng rất nhiều, nó ở trên các sản phẩm như ví tay, túi xách, áo dài, áo cánh bà ba, thời trang công sở, thời trang dạo phố với những thiết kế hiện đại trên chất liệu in, thêu, dệt, vẽ tay…

rất đa dạng và phong phú, nơi đây có nhiều khách quốc tế tới tham quan và mua làm đồ lưu niệm như một dấu ấn về một Việt Nam hiện đại mà truyền thống.

Hình 6. Chân cột đèn tại Đền Trần (Nam Định)

Hình 7. Trai bịt đồng, lưu niệm ở Quốc Tử Giám

Hình 8. Á hậu Biên Bảo Như trong phần thi quốc phục tại cuộc thi Hoa hậu Liên lục địa 2016

(9)

Phạm Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 167(07): 31 - 36

36

KẾT LUẬN

Như vậy, chúng ta vừa điểm qua một chặng đường dài về văn hóa và lịch sử tạo hình của văn thủy ba. Sự ra đời và phát triển của văn thủy ba gắn với những thăng trầm và biến cố của lịch sử dân tộc.

Ngay từ khi hình thành, với hoa văn khuông nhạc là đỉnh cao của sự khởi thủy, hình tượng hoa văn độc đáo này đã chắp cánh để dần tạo được một đỉnh cao rực rỡ nhất của nghệ thuật tạo hình thủy ba đó là kỷ Lý Trần - nét vàng son trong nghệ thuật điêu khắc đá và gỗ của Việt Nam.

Trải qua các triều đại, Thủy ba đã hình thành và có chỗ đứng vững chắc trong hình thái trang trí của dân tộc, văn thủy ba xuất hiện trang trọng, phong phú, độc đáo, có hồn thái cốt cách rất riêng. Tuy các họa tiết thủy ba phong phú xong chúng ta có thể thấy rằng có ba dạng thức thủy ba phổ biến là thủy ba hình sin, hình núi và hình nấm, nó chất chứa bao ẩn ý về ước vọng và ý chí, đồng thời cũng

phản ánh được cái riêng của nghệ thuật tạo hình Việt.

Chúng ta có hẳn một kho tàng họa tiết, nhưng hình tượng văn thủy ba giàu ý nghĩa tổng hợp của các yếu tố thiên nhiên và tâm linh là nguồn tư liệu quý không những có giá trị về tạo hình mà còn có giá trị cao về mặt lịch sử văn hóa dân tộc. Việc làm sống dậy và phát triển những môtip quý giá luôn là chủ đề cho những nhà nghiên cứu, những học giả. Từ những kết quả nghiên cứu còn hạn chế này, chúng tôi hy vọng rằng đã cung cấp thêm tư liệu quý giá để có thể ứng dụng có hiệu quả trong quá trình tư duy và sáng tác nghệ thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ (1975), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản rập) Viện nghệ thuật – Bộ văn hóa, Sài Gòn, tr. 25.

2. Nguyễn Du Chi (2003), Hoa văn Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, tr. 196.

3. Chu Quang Trứ, (2012) Mỹ thuật Lý – Trần, Mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật, tr. 171.

SUMMARY

WATER WAVE ICONS IN THE ANCIENT FINE ART OF VIETNAM AND THEIR APPLICATIONS IN PRODUCTS OF MODERN SHAPED ART

Pham Thi Ngoc Anh* University of Information Technology and Communications – TNU

Since the ancient fine art of Vietnam, there have been many patterns such as water wave icons, lotus, chrysanthemum, dragon, cloud, etc. that are used for decorating artworks. Many of them are still popular until now, but some of them are nearly forgotten. With respect to the promotion and preservation of Vietnamese art in the modern era, there are a lot of research focusing on the nearly forgotten patterns. As the same purpose, this work surveyed and analyzed the formation and transformation of the water wave icons through the ages and their applications in the modern industrial fine art products. The results showed that water wave icons had ever beenboth iconic artsand decorative patterns in the ancient fine art of Vietnam. Those patterns contain not only artistic values but also spiritual values of religion, and also contain the philosophical conceptions of Oriental rice agriculture. In addition, they reflect the ever-changing rotation of life by the up and down curves. Finally, the discussions, comments, and results will be meaningful for understanding the ancient art of Vietnam, especially the reign of the Ly – Tran. The water wave iconic patternsshould be promoted, preserved, and developed.

Keyword: Iconic of water waves; water waves; Iconic of water waves in shaped art; The water wave icons in the reign of the Ly – Tran; Applying the water wave icons for decorating artworks

Ngày nhận bài: 20/3/2017; Ngày phản biện: 19/5/2017; Ngày duyệt đăng: 28/6/2017

* Tel: 0917359352; Email: ptnanh@ictu.edu.vn

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

giảng dạy sinh viên không chuyên ngữ tại Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên 55 Hoàng Thị Thắm - Nghiên cứu về siêu nhận thức trong nghe tiếng Anh của

Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay 73 Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và

Nguyễn Khánh Như - Sự phát triển của hệ thống các trường đại học sư phạm trọng điểm Trung Quốc hiện nay 73 Nguyễn Văn Hồng, Vũ Thị Thanh Thủy - Dạy học theo dự án và

để xây dựng chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo tại Đại học Thái Nguyên 131 Đỗ Quỳnh Hoa - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng lối sống cho sinh

Giáo dục phẩm chất trách nhiệm cho học sinh lớp 6 Trường THCS Chu Văn An – thành phố Thái Nguyên 338 Nguyễn Thị Mai Hương, Bùi Thị Sen - Các yếu tố ảnh hưởng đến

Pham Thi Hong Nhung - Analyzing the image of Quang Yen tourist destination in order to improve competitiveness 45 Duong Quynh Phuong, Chu Thi Trang Nhung - Labor and

giảng viên tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh - Đại học Thái Nguyên 590 Nguyễn Thùy Giang, Hà Thị Thu Thủy - Tác động của phát triển công nghiệp đối với

Bài viết này nhằm xây dựng khung lý thuyết với mục đích khám phá các nhân tố chính ảnh hưởng đến sự hài lòng trong công việc của người lao động tại Công ty cổ phần quản