• Không có kết quả nào được tìm thấy

Kinh tế nông thôn - một số ghi nhận về những mối quan hệ xã hội và nghiên cứu xã hội học về

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Kinh tế nông thôn - một số ghi nhận về những mối quan hệ xã hội và nghiên cứu xã hội học về "

Copied!
15
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Kinh tế nông thôn - một số ghi nhận về những mối quan hệ xã hội và nghiên cứu xã hội học về

những người lao động và buôn bán rong tại Hà Nội

Regina Abrami

I. Mở đầu

Đi ngang qua một người bán hàng rong khi bạn vào một chợ nào đó ở Hà Nội, có lẽ bạn không ngay lập tức nghĩ đến nền kinh tế này được điều chỉnh như thế nào hay là về “rủi ro kinh tế” (economic risk) được thiết lập như thế nào và ai chịu rủi ro kinh tế lớn nhất.1 Thật vậy, một ý nghĩ như vậy luôn luôn dẫn đến một câu hỏi đáng quan tâm hơn về mối quan hệ giữa kinh tế nông thôn và đô thị, giữa chợ và thị trường, giữa những tổ chức kinh tế trứoc đây và hiện nay, và vai trò của quan hệ xã hội đan chéo lẫn nhau của những bộ phận này. Ngoài tham khảo các tài liệu được xuất bản và trao đổi khoa học với các chuyên gia Việt Nam liên hệ với đề tài này, bài viết này dựa vào những cuộc phỏng vấn người bán rong và người lao động lưu động từ nông thôn ra để kiếm sống ở Hà Nội.2

Mối quan hệ giữa thành phố và nông thôn luôn luôn là một bộ phận của lịch sử Việt Nam, và đặc biệt là lịch sử của Hà Nội. Tên cổ của Hà Nội, Kẻ Chợ, đã minh chứng rằng cốt yếu của mối quan hệ này là thương mại. Những câu thành ngữ dân gian (phổ biến) như “nhất cận thị, nhị cận giang” hay “ngăn sông cấm chợ” đã minh chứng rõ hơn cho sự hiểu biết về mối quan hệ giữa lưu

động dân số, các chợ, các thành phố và nền kinh tế.

Với tình trạng kinh tế hiện nay, sự phân bố lao động và phân phối hàng hoá không còn chỉ phụ thuộc vào các nhà lập kế hoạch nhà nước. Hiện nay, các cá nhân và hộ gia đình, các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân tự lựa chọn lấy và ho đóng một vai trò quan trọng trong lưu thông hàng hoá (bao gồm cả lao động) trong cơ cấu kinh tế và điều chỉnh kinh tế. Vì thế cho nên sự lưu

động dân số và việc di dân nông thôn ra đô thị trong thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường ngày càng gia tăng là không có gì đáng ngạc nhiên.

Nghiên cứu sinh. Trường Đại học California Berkeley (Hoa Kỳ), hiện đang làm việc tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

1“Rủi ro kinh tế” là một khái niệm khoa học của môn kinh tế học. Khái niệm này đ-ợc sử dụng để phân biệt gánh nặng của việc tham dự hoạt động kinh tế phân hoá trong xã hội nh- thế nào. Khái niệm này cũng đ-ợc sử dụng để phân tích tại sao ng-ời ta

đối với một việc sẽ lựa chọn khác nhau. Sự phân tích này đ-ợc xây dựng trên các quy luật kinh tế học nói là ng-ời ta sẽ cố hạ thấp sự thiệt hại và tăng lợi lộc do việc tham dự nền kinh tế. Theo các nhà kinh tế, con ng-ời có thể giảm bớt sự rủi ro kinh tế bằng nhiều cách nh- là ký hợp đồng, có thông tin đây đủ tr-ớc khi lựa chọn v.v... Để nắm rõ hơn các khai niêm kinh tế học sẽ nêu ra sau này, đề nghị bạn tham khảo quyền “Từ điến giải nghĩa kinh tế - kinh doanh" (Anh-Việt), Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

Hà Nội-1996.

2 Chọn một nhóm từ có khả năng miêu tả hiện t-ợng xã hội về ng-ời ngoài tỉnh và ngoài thành kiếm sống ở trung tâm Hà Nội cực kỳ khó. Cho đến này, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng những nhóm từ nh- “lao động tự do”; “lao động ngoài tỉnh”, “ng-ời di c-”;

“ng-ời di dân” hoặc là “ng-ời di động”. Trong bài viết này, tôi sẽ dùng từ Hán - Việt “l-u động” nh- là “dân số l-u động”; “ng-ời lao động l-u đông” và “ng-ời l-u động” để nói về những ng-ời không có đăng ký hộ khẩu th-ờng trú ở Hà Nội nh-ng kiếm sống tại

đây. Do vậy, từ “l-u động” kể cả những ng-ời tạm trú ở, đi lại hàng ngày, làm thuê và buôn bán ở nội thành Hà Nội.

(2)

Mục tiêu của bài viết này là nhằm đánh giá về mối quan hệ xã hội khác nhau trong một số lĩnh vực kinh tế ra sao và ảnh hưởng của cái gọi là “chiến lược kiếm sống” (livelihood strategies) của những người bán rong và người lao động lưu động là như thế nào (Smith 1994). Để giải thích tại sao những người có mối quan hệ xã hội rộng nhất vừa là những người chịu gánh nặng của rủi ro kinh tế nặng nhất, bài viết này sẽ chỉ ra khác biệt về rủi ro kinh tế của một số người lưu động

đang tham gia thị trường Hà Nội.

Những điểm trên được kiểm chứng thông qua một nghiên cứu so sánh về cơ cấu của một số lĩnh vực kinh tế và vị trí của người lưu động trong cơ cấu này có ảnh hưởng đến khả năng khai thác lợi lộc từ mối quan hệ xã hội như thế nào. Hơn nữa, bằng việc miêu tả và vẽ biểu đồ hệ thống thứ bậc của những người lưu động và các loại thể chế xã hội đã cho phép một sự mở rộng hoạt động kinh tế và địa vị xã hội, có thể thấy rằng bậc yếu nhất không phải ở đáy mà ở đỉnh của thứ bậc người lưu động. Thực tế, một kết luận trái với trực giác ban đầu là trong thời điểm này những người này có vẽ như có lợi nhất do mối quan hệ xã hội rộng rãi thì lại phải chịu rủi ro kinh tế lớn nhất.

Nhấn mạnh tính đa dạng về kinh tế-xã hội của nhóm xã hội này, bài viết cũng nhằm những mục tiêu rộng hơn. Thứ nhất, thuyết phục những độc giả xa lạ với phương pháp dân số học và những phân tích chỉ dựa vào những cuộc khảo sát theo phiếu để đánh giá về sự tác động của hiện tượng kinh tế xã hội dân số lưu động. Thứ hai, bằng việc chỉ ra mối quan hệ giữa thị trường nông thôn-thành thị có một ý nghĩa rộng lớn đối với sự thịnh vượng kinh tế của hộ gia đình nông thôn như thế nào, bài viết này cũng nằm khuyến khích những nghiên cứu xã hội học tiếp theo về mối quan hệ giữa “chiến lược kiếm sống” và những thay đổi to lớn về thể chế đang điễn ra ở Việt Nam. Một nghiên cứu như thế có thể mang lại cho nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách một sự hiểu biết rõ ràng về các hoạt động kinh tế thường nhật ảnh hưởng đến và chịu ảnh hưởng bởi những biến đổi kinh tế-xã hội ở tầm vĩ mô như thế nào.

II. Các thể chế xã hội và nền kinh tế: Giới thiệu về những vấn

đề lý luận 3

Đã từng có một thời kỳ khi mà cộng đồng nghiên cứu coi việc nghiên cứu kinh tế như là một phạm vi mà chỉ có các nhà kinh tế có thể làm được. Giống như những ảo thuật, nhà kinh tế có thể chuyển biến sự phức tạp của những lựa chọn kinh tế trở thành một mô hình toán học - những mô hình toán học này không chỉ làm sáng tỏ mà còn dự đoán những hành vị của con người, và thậm chí cả sự phát triển kinh tế nữa. Trên thực tế, con người và hệ thống kinh tế người ta tạo ra phức tạp hơn rất nhiều.

15 năm gần đây những người nghiên cứu khoa học xã hội, một phần để đáp ứng được những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu, đã làm sống lại những tranh luận trước kia về mối quan hệ giữa xã hội, nhà nước và kinh tế. Như trước đây, những tác phẩm của Marx, Weber và Durkheim bao quát nội dung riêng của lý luận xã hội học hơn là giới thiệu dẫn nhập vào môn học.

Và trong khi có vẻ quá sớm để đòi hỏi sự nhất trí của những ngành học, thì một chủ đề chung đã

nổi lên. Cụ thể, sự hiểu biết về kinh tế và sự biến đổi thể chế đòi hỏi sự chú ý hơn nữa đến vai trò của các thể chế xã hội và xem chúng ảnh hưởng như thế nào không chỉ đến cơ cấu kinh tế mà còn

đến cả sự biến đổi và phát triển kinh tế. Tiếp theo tôi sẽ giới thiệu hai hướng tiếp cận chính hiện

đang được sử dụng trong nghiên cứu sự biến đổi và phát triển của thể chế. Tôi sẽ đặc biệt tập

3 Trong bài này, tôi sẽ dùng từ “thể chế ” theo cách sử dụng của nhà kinh tế học và nhà xã hội học. Một “thể chế ” là “những quy tắc, (tư tưởng) và tập tục về cư xử trong xã hội được hình thành từ trong thực tiễn, được xã hội chấp nhận” mà có thể trở thành một loại hình thức có thể nhìn rõ như là bộ phận của pháp luật nhà nước (ibid. Tr. 361).

(3)

trung vào vấn đề các hướng tiếp cận này nắm bắt mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, sự biến đổi kinh tế và thể chế xã hội ra sao. Hy vọng rằng các hướng tiếp cận mang tính lý thuyết này có thể góp phần vào sự hiểu biết của chúng ta về nền kinh tế và xã hội Việt Nam đang ngày càng đa dạng và phức tạp.

a. Hướng tiếp cận kinh tế

Đối với nhiều nhà kinh tế học thì các thể chế, bao gồm thể chế xã hội, đóng một vai trò trung gian trong nền kinh tế. Đó là một cách để giải quyết các vấn đề liên quan với việc lựa chọn và việc giao địch kinh tế. Vì không có thể có đầy đủ thông tin về bất cứ tình trạng nào (cả nền kinh tế), quá trình lựa chọn coi như là một hành vi rủi ro. Và, chính vì chúng không thể dự đoán được hiệu qủa của lựa chọn trong điều kiện thiếu thông tin, các nhà kinh tế gọi tinh trạng này “rủi ro”.

Hơn nữa, tình trạng này làm tăng “những chi phí giao dịch” liên quan với vấn đề thông tin không

đây đủ (Williamson 1975). Chúng được miêu tả như là “những chi phí” vì tình trạng này làm cho người ta tốn nhiều thời gian, công sức và đôi khi cả tiền bạc để làm giảm bớt rủi ro do việc lựa chọn và giao dịch kinh tế. Để giải quyết tình trạng này, theo nhiều nhà kinh tế, người ta tạo lập và dựa vào các loại thể chế xã hội, như hợp đồng để bảo đảm sự thỏa thuận, chế độ đỡ đầu để giảm bớt cạnh tranh, v.v...4

Những vấn đề này được giải quyết như thế nào là điều các nhà xã hội học nên quan tâm.

Ví dụ trong vấn đề việc làm, chúng ta có thể thấy rằng ở một vài làng xã Việt Nam, những người trẻ tuổi vẫn tiếp tục làm nghề gia truyền. Hay trong các nhà máy, chúng ta có thể thấy rằng những người trẻ tuổi thay thế vị trí của bố mẹ sau khi họ về hưu. Một nhà kinh tế dựa vào kinh tế học về các thể chế sẽ phân tích cả hai trường hợp này như thế nào? Một số sẽ nói rằng cả hai thể chế là một cách hạ thấp “chi phí giao dịch” liên hệ với việc lựa chọn. Cụ thể về các làng nghề, trong trường hợp bố mẹ có khả năng chuyển đổi thị trường sang cho con cái bằng “sự thừa kế” các khách hàng, chúng ta có thể dụ đoán con cái sẽ lựa chọn làm tiếp nghề gia truyền vì sự thừa kế của khách hàng đã hạ thấp các chi phí giao dịch mà con cái sẽ phải giải quyết khi bắt đầu một nghề mới. Nhưng, nếu không thể bảo đảm giá trị thị trường của nghề đó, chúng ta có thể dự đoán rằng con cái sẽ bỏ nghề gia truyền và đi tìm một nghề khác. Đối với trường hợp thừa kề địa vị của bố mẹ trong một nhà máy, một số nhà kinh tế sẽ nói rằng tình trạng sinh lợi cho người quản lý và chính vì vậy thể chế này không chỉ phổ biến với người làm công. Cụ thể, tuyển dụng con cái của nhân viên có thể hạ thấp độ rủi ro kinh tế phát sinh do tuyển dụng một người mà người quản lý không biết nguồn gốc. Hơn nữa, thể chế này cũng hạ thấp các chi phí giao dịch liên hệ với việc theo dõi sự thỏa thuận giữa người quản lý và nhân viên vì tình trạng này phát huy vai trò của thể chế gia đình và các nỗ lực của cha mẹ để duy trì danh tiếng của họ qua hoạt động của con cái.

Như vậy, một số nhà kinh tế sẽ nói rằng cả hai thể chế xã hội (chuyển giao nghề gia truyền và hệ thống thừa kế việc làm) vẫn tồn tại được vì cả hai có “hiệu qủa” (efficiency) về mặt hạ thấp chi phí giao dịch nói riêng và hiệu qủa kinh tế, nói chung. Vì vậy, một số nhà kinh tế nói rằng khi nào một thể chế không có hiệu qủa (inefficient), nó sẽ được biến đổi hoặc là bị biến mất dần dần. Một ví dụ rõ ràng là sự biến đổi của cơ cấu gia đình trong lịch sử nhân loại.

Một hướng tiếp cận tinh vi hơn là không nhất thiết đòi hỏi những thể chế xã hội phải giải quyết có hiệu quả những vấn đề giao dịch kinh tế (North 1981). Hơn nữa, thể chế và những cấu

4Một ví dụ cho trường hợp này ở Việt Nam là một thói quen chung là đi “tham khảo giá cả” trước khi mua bán chính thức, chẳng hạn như đi mua một chiếc xe máy. Hiện nay, với sự khai trương của các phòng trưng bày và các siêu thị thì mọi người không còn tốn cả

ngày đi từ cửa hàng ngày sang cửa hàng khác để biết được giá cả chung. Bây giờ, mọi người nhanh chóng kiểm tra được giá cả ở các nơi này biết được là họ có thể mua cùng mặt hàng đó với giá thấp nhất ở nơi khác.

(4)

trúc thể chế là sản phẩm của “những cấu trúc khuyến khích” (incentive structures) khác nhau.

Như vậy, khi nào những cấu trúc khuyến khích thay đổi, các nhà kinh tế theo hướng tiếp cận

“khuyến khích” của kinh tế học về thể chế sẽ dự đoán rằng thể chế nào liên hệ với sự khuyến khích này cũng sẽ thay đổi. Và, trong trường hợp thể chế không thay đổi, các nhà kinh tế này sẽ nói rằng sự khuyến khích vẫn có giá trị. Vì nếu sự khuyến khích không còn giá trị với những người lựa chọn, thì thể chể được nghiên cứu sẽ thay đổi. Cách nói khác, thể chế nào và sự thay đổi thể chế

được coi như là tổng hợp của sự lựa chọn của tất cả cá nhân phản ứng lại những khuyến khích.

Hướng tiếp cận này đã được sử dụng để giải thích những biến đổi thể chế lớn, như là sự kết thúc của chế độ phong kiến ở phương Tây, và nhỏ, như là sự tăng lên của tỷ lệ ly hôn ở một số nước ở phương Tây. Đối với cả hai vấn đề, các nhà kinh tế theo hướng tiếp này bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu với một câu hỏi chính: “Những khuyến khích là gì và đối với ai?”. Như vậy, hướng tiếp cận này khác với hướng tiếp cận “hiệu quả” của kinh tế học về thể chế.

Nói tóm lại, hai hướng tiếp cận kinh tế học này có giá trị quan trọng. Ngoài các nhà kinh tế, các nhà nghiên cứu khác cũng ưu tiên hướng tiếp cận này vì năng lực dự đoán của nó rất cao.

Nói riêng về vai trò của thể chế xã hội và nền kinh tế cả hai hướng tiếp cận có hai điều chung.

Thứ nhất là các thể chế xã hội được hiểu như là kết qủa của cái có thể còn lại về mặt lý thuyết kinh tế - một thị trường tự điều chỉnh và khả năng của tự lựa chọn “hợp lý” của các cá nhân. Thứ hai, nền kinh tế được miêu tả như là một chủ thể độc lập ảnh hửơng và được ảnh hưởng bởi các khuyến khích có nguồn gốc từ chỗ khác.

b. Hướng tiếp cận xã hội học

Các nhà xã hội học phản ứng khá mạnh mẽ với quan điểm về thể chế xã hội và nền kinh tế này. Quan điểm trái ngược với các nhà kinh tế học dẫn đến sự phát triển của một chuyên ngành trong xã hội học gọi là “Xã hội học tân kinh tế" (New Economic Sociology) (Granovetter &

Swedberg, 1992). Xây dựng trên tác phẩm đầu tay của Marx, Weber và Durkheim, các nhà xã hội học theo khuynh hướng “tân kinh tế” đã tập trung vào việc làm rõ những hạn chế trong quan niệm của các nhà kinh tế học về nền kinh tế và hành vi của con người.

Sự khác nhau với các nhà kinh tế học của họ là dễ hiểu. Trái với quan điểm của các nhà kinh tế học coi sự thay đổi của những khuyến khích cá nhân là nguyên nhân gây ra những biến

đổi trong các thể chế xã hội, các nhà xã hội cho rằng quá trình biến đổi bắt đầu từ các thể chế xã

hội. Nói khác đi, kinh tế không phải là một lĩnh vực độc lập. Nó là một hiện tượng xã hội. Như

vậy, kinh tế không đứng ngoài xã hội, mà là sản phẩm của xã hội. Nói cách khác, kinh tế có thể

được nghiên cứu và được hiểu một cách đúng đắn bằng những phương pháp xã hội học và nhân chủng học xã hội. Do dó, những nhà xã hội học đã nghiên cứu nhiều vấn đề kinh tế như việc làm, thương mại, vai trò của hợp đồng v.v. Nhưng, thay vì tìm kiếm “sự hợp lý kinh tế” (economic rationality) của những thể chế xã hội trong và ngoài nền kinh tế, các nhà xã hội học này chú ý hơn vào việc nhận dạng tính xã hội của những sự sắp xếp thứ bậc hợp lý (rational order preferencing) của sự lựa chọn của các cá nhân nói riêng và xã hội nói chung. Như vậy, các nhà xã

hội học theo hướng tiếp cận tân kinh tế tập trung vào những thể chế xã hội và văn hóa và ảnh hưởng của nó đối với cơ cấu nền kinh tế (cả nền kinh tế thị trường).

Những sự cố gắng của các nhà xã hội học này đã gặp một số hạn chế. Theo một số nhà xã

hội học nông thôn và các nhà xã hội học khác, thì xã hội học tân kinh tế đã "xã hội hóa" kinh tế một cách quá đáng. Do đó, họ có khi coi nền kinh tế và xã hội như là đồng nghĩa. Sự phê phán này là dễ hiểu. Nếu chúng ta nhìn nhận kinh tế và xã hội như là một thao tác đồng nhất, khi đó chúng ta không thể nghiên cứu một cách chính xác quá trình biến đổi. Ví dụ, chúng ta không thể

(5)

phân tích cụ thể sự ảnh hưởng của tín dụng, nợ nần, và những dao động giá cả đến sự biến đổi của các thể chế xã hội. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận rằng kinh tế là một lĩnh vực độc lập tương đối thì chúng ta có thể hiểu được tại sao và khi nào những thể chế xã hội có thể thay đổi và do đó có thể ảnh hưởng đến cơ cấu thị trường ra sao.

Hướng tiếp cận này khác với hướng tiếp cận “cơ cấu khuyến khích” của các nhà kinh tế học và hướng tiếp cận “tân kinh tế” của một số nhà xã hôi học như thế nào? Sự khác nhau là cơ

bản: Đó là sự khác nhau về mục tiêu. ở đây, mục đích của nghiên cứu không phải là giải thích hợp lý các cấu trúc kinh tế cũng như những sắp xếp xã hội đã sản sinh ra chúng. Ngược lại, mục tiêu là nghiên cứu những nguyên nhân của sự biến đổi thể chế ở mức độ phân tích vi mô và vĩ mô.

Điều này đòi hỏi một giả thiết khác. Cụ thể phải thừa nhận rằng không phải mọi người đều có thể

đáp ứng bình đẳng tới những cơ cấu khuyến khích thay đổi. Về phương pháp luận, điều đó có nghĩa là nghiên cứu phải tập trung vào những năng lực khác nhau của người ta khi đáp lại những cơ cấu khuyến khích thay đổi cũng như khả năng tham gia hoạt động kinh tế và các thể chế xã hội khác. Như Mác đã nói, “Lịch sử mà người ta làm ra có thể không phải chỉ theo mong muốn của mình” (Man may make his own history, but not in anyway that he choosos”). Quá trình này không chỉ bao gồm việc họ tham gia vào nền kinh tế như thế nào mà cả đến các loại thể chế xã hội khác và cấu trúc kinh tế ngày xưa và hiện nay.

ở Việt Nam, không hề thiếu những câu tục ngữ về lợi ích của quan hệ xã hội đối với hoạt

động kinh tế và các lĩnh vực khác. Nổi tiếng nhất có lẽ là câu tục ngữ “buôn có bạn, bán có phường”. Câu tục ngữ phổ biến này gợi lên một ý là, ở Việt Nam cũng như ở nhiều nơi, người nào có những mối quan hệ xã hội rộng rãi thì anh ta ở một vị trí thuận lợi nhất để khai thác những cơ

cấu khuyến khích thay đổi. Như vậy, chúng ta có thể giả thiết rằng những cá nhân này được lợi nhiều nhất từ sự chuyển đổi thị trường so với các cá nhân khác. Nhưng, như tôi sẽ minh họa ở dưới, điều này có thể không đúng đối với bộ phận bên dưới của kinh tế đô thị Hà Nội. Đó là bộ phận bao gồm những người bán rong và lao động lưu động. ở đây có khả năng một số người để đáp ứng cơ cấu khuyến khích thay đổi thường đem lại những lựa chọn kinh tế mang tính rủi ro hơn là thận trọng. Thực tế, dường như những người có vốn xã hội (social capital) nhất lại có thể ở vị trí yếu hơn. Song, những lựa chọn kinh tế mang tính rủi ro và sự yếu thế của họ không chỉ do việc lựa chọn của họ gây nên mà là do sự thay đổi kinh tế nói chung.

Trong phần sau, sẽ cung cấp những biểu đồ cấu trúc của một vài lĩnh vực kinh tế. Mục

đích là nhận diện khách quan những cách khác nhau mà người buôn bán rong và người lao động lưu động tham dự thị trường Hà Nội và các loại thể chế xã hội mà vừa cho phép vừa hạn chế các hình thức tham dự của họ. Những phần tiếp theo sẽ phân tích ảnh hưởng của vị trí kinh tế - xã hội trong những khu vực kinh tế này lên hành vi kinh tế và những mối liên hệ của nó đến nghiên cứu về di dân và kinh tế - xã hội nông thôn.

III. Những người bán rong và lao động lưu động ở Hà Nội. Một biểu đồ về cơ cấu thị trường và hình thức tham dự vào thị trường Hà Nội

Phần này cung cấp một biểu đồ những khu vực kinh tế mà những người buôn bán và lao

đọng từ nông thôn ra kiếm sống. Những khu vực kinh tế bao gồm những thị trường nhựa gia dụng, xây dựng và hàng xén. Dưới đây là một sự miêu tả bao quát. Chỉ bằng việc minh họa sự đa dạng của loại “lao động ngoài tỉnh” chúng ta có thể bước đầu hiểu được những khác nhau của nguồn lực kinh tế - xã hội tác động như thế nào đến các hình thức tham dự vào thị trường, cấu trúc và hành vi kinh tế.

(6)

Trước khi miêu tả sự biến đổi của mỗi lĩnh vực, điều cần thiết trước tiên là phác họa những điểm giống nhau và khác nhau của các khu vực quan hệ đan chéo nhau về mặt cơ cấu chung (1-2). Với mỗi cấu trúc cơ bản này, có những kiểu phụ (sub-types) sẽ được miêu tả sau. Có một số khác nhau khi những kiểu phụ này phản ánh cấu trúc vùng nói chung. Đặc biệt, ai đảm nhận những vai trò khác nhau trong những khu vực kinh tế này đang ảnh hưởng rất lớn đến khả

năng thu lợi từ những mối quan hệ xã hội và mức độ rủi ro kinh tế của những người bán rong và lao động lưu động có liên quan đến việc tham dự thị trường.

Sơ đồ 1: Cơ cấu thị trường lao động "Ngoài tỉnh" Khu vực xây dựng

(Lao động ngoài tỉnh)

(Lao động

ngoài tỉnh)

Sơ đồ 2: Cơ cấu mua và bán khu vực Hàng tạp hóa/hàng nhựa gia dụng

(TP. HN và HCM) (Người HN và

(Người HN và

Người ngoài tỉnh) Người ngoài tỉnh)

(Người HN và

Nhà

đầu tư

Nơi sản xuất

Người bán buôn lớn và

Người bán buôn nhỏ Chợ biên

giới và TP HCM

Người buôn bán lớn

Nhà nhận thầu

Người mua buôn Tổ thợ xây

Người quản lý lao động trực tiếp

(tổ trường)

Người mua lẻ

(Người HN và Người ngoài tỉnh) Người bán rong)

1. Khu vực xây dựng: những mối quan hệ xã hội của việc tham gia vào thị trường lao động Từ khi bắt đầu cuộc đổi mới kinh tế, khu vực này đã và đang trải qua sự biến dổi thể chế to lớn. Đầu từ nước ngoài, những dự án phát triển kết cấu hạ tầng hàng triệu đô la và sự phát triển của thị trường xây dựng nhà cửa đã làm cho khu vực này trở thành một trong những khu vực tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế Việt Nam. Một thành phần cốt yếu của khu vực này tất nhiên là thị trường thợ xây dựng. Khác với ngày trước, khi những công nhân nhà nước được phân công vào các dự án trả một khoản lương hàng tháng, hiện nay công nhân xây dựng của Hà Nội là một tập hợp những công nhân thuộc biên chế, cùng với những cư dân nông thôn đến Hà Nội để thi công những công trình công đoạn ngắn và dài.

Dưới đây là một phác thảo 3 kiểu cấu trúc chính, nơi mà những cư dân nông thôn có thể tìm việc làm trong khu vực xây dựng (Sơ đồ 3-5).

Trong tất cả những sự sắp xếp này, những mối quan hệ xã hội đóng một vai trò chính yếu trong việc giành được việc làm. Nhưng, những mối quan hệ xã hội này khác nhau về kiểu loại hơn là mức độ quan hệ xã hội. Chúng phản ánh những sự khác biệt trong nguồn lực xã hội (social resources) đang lần lượt ảnh hưởng đến những cư dân nông thôn vào được thị trường xây dựng như thế nào, và phương thức đáp ứng của họ đối với những thay đổi thị trường và chính sách. Với

(7)

mục đích đơn giản, những mối quan hệ xã hội khác nhau của thị trường lao động xây dựng Hà Nội có thể phân thành theo ba loại, “Thủ công”; “Đồng nghiệp” và “Thứ bậc”

Sơ đồ 3: Những mối quan hệ kiểu thủ công (Artisanal Social Relations)

Nhà đầu tư

nhỏ

Sơ đồ 4: Những mối quan hệ kiểu đồng nghiệp (Collegial Social Relations)

"Người nhận thầu"

Tổ trường và thợ xây dựng

Nhà đầu tư Kỹ sư - Kiến trúc sư

(Người nhận thầu)

Tổ xây dựng

Tổ xây dựng

Tổ trưởng Tổ xây

Tổ xây dựng

Sơ đồ 5: Những mối quan hệ kiểu thứ bậc (Hierarchical Social Relations)

Tổ trưởng

Một trong những Công ty nhận thầu Người đầu tư

Tổ Thợ xây

Đội trưởng Nhân viên quản

lý công trường Tổ trưởng Tổ Thợ xây

Tổ Thợ xây Tổ trưởng

Đội trưởng

Đội trưởng

Loại thứ nhất (Sơ đồ 3), những mối quan hệ xã hội “Thủ công”, là kiểu tham gia vào thị trường lao động đơn giản nhất. Nó phản ánh cái gọi là một sự tập trung của các cư dân nông thôn

đến Hà Nội từ những nơi nổi tiếng về nghề xây dựng (Hà Tây và Bắc Ninh). Thực tế, làn sóng đầu tiên của những cư dân nông thôn vào biên chế khu vực xây dựng của nhà nước là vào cuối những năm 1950, đầu những năm 60 chủ yếu từ những địa phương này. Sau đó, trong những năm đầu

(8)

cuộc cải cách kinh tế, những người thợ từ những địa phương này là một trong những người tham gia đầu tiên vào khu vực tư nhân của thị trường xây dựng nhà ở. Trong thời gian này, có khi một tốp bao gồm những người thuộc biên chế, nhưng thông thường chỉ có một người làm tổ trường thuộc biên chế. Người này thừơng mời các anh em vào để “giúp đỡ”. Ngày nay nhiều người thuộc biên chế, những công nhân thợ xây nhà nước này đã thôi việc không thuộc biên chế nữa. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục có những quan hệ xã hội rộng lớn trong mạng lưới mở rộng dọc và ngang khắp khu vực xây dựng. Hơn nữa, họ vẫn duy trì được uy tín của làng nghề đối với cư dân thành phố Hà Nội.

Trong trường hợp những mối quan hệ xã hội kiểu thủ công, mối quan hệ của người tổ trưởng với thợ xây không phân chia địa vị, một cái mà có thể gọi là mối quan hệ chủ-thợ này được rõ ràng nhất trong việc xem tiền công theo hợp đồng được xác định như thế nào. ở đây, tiền công là sự hiểu biết chung, bao gồm người tổ trưởng có thu nhập lớn nhất. Thực tế, những tổ trưởng

được những người thợ miêu tả đặc trưng như là “đại diện cho nhóm”, hơn là người giám sát họ ở nhiều phương diện, những mối quan hệ xã hội “thủ công” được coi là trường hợp điển hình mà người tổ trưởng làm việc cùng với đội. Tương tự, giống hệt những phường bạn hồi xưa, ở đây cũng không có phần thưởng và thợ trẻ phải qua một thời gian học việc. Một khoản tiền công của thợ thủ công được xác định trước bằng trình độ tay nghề, chứ không phải bằng “năng suất”. Cũng vậy, tổ trưởng và những thành viên trong tổ thủ công là cùng một làng, chỉ có những điều thỏa thuận bằng lời, chứ không có hợp đồng có văn bản. Cuối cùng, ở một chừng mực nào đó tổ trưởng cũng là người trong gia đình, tổ trưởng giữ vai trò lình hoạt trong việc dẫn dắt cuộc sống xã hội và dạy cho thợ trẻ.

Loại thứ hai (Sơ đồ 4), những mối quan hệ xã hội “đồng nghiệp”, bắt đầu bén rễ vào đầu thời kỳ đổi mới khi mà những cư dân nông thôn tham gia ngày một nhiều vào thị trường khu vực tư nhân hơn là những người thuộc biên chế (từ khoảng đầu giữa năm những năm 80). Tình trạng này tạo ra một sự sắp xếp có lợi chung nhờ đó những kỹ sư và những công nhân nhà nước có tay nghề cao bằng một cách “chính thức” hay “phi chính thức”. Trả lại, họ đồng ý bổ sung cho những thợ nông thôn những kỹ năng kỹ thuật nào còn đang thiếu. ở thời điểm này, sự sắp xếp ấy cho phép cả hai bên đều thu lợi từ việc tham gia vào thị trường.

Vì sự mở rộng rộng khắp của khu vực xây dựng và của nhu cầu phổ biến về xây dưng và thiết kế nhà ỏ chất lượng cao hơn, cấu trúc của những mối quan hệ xã hội “đồng nghiệp” đã thay

đổi. Hiện nay, ngày càng khó khăn hơn để những tổ trưởng ở nông thôn ra giành được những hợp

đồng lớn một mình. Bây giờ, bước đầu tiên trong việc xây dựng một ngôi nhà thường là do những kỹ sư và kiến trúc sư ký hợp đồng. Tuy nhiên, thường khi những người chuyên nghiệp này hoàn tất những dự án một cách độc lập, họ cần phải tìm một tốp làm việc để thực hiện dự án. Họ tìm

đội ngũ làm việc này qua mối liên hệ xây dựng với những người tổ trưởng vẫn sống ở nông thôn hoặc với những tổ trưởng là những người đăng kỳ tạm trú dài ngày ở Hà Nội, xu hướng này đang ngày càng gia tăng.

Cái làm nên những mối quan hệ xã hội “đồng nghiệp" này là người thực hiện hợp đồng (Bên B) thiết lập những mối quan hệ riêng với những người tổ trưởng, chứ không phải với thợ. Và, không giống như những mối quan hệ xã hội “thủ công”, người thực hiện hợp đồng (bên B) và người tổ trưởng ( B’ ) cố gắng phát triển một mối quan hệ ổn định vững chắc với nhau. Và như vậy, người thực hiện hợp đồng ban đầu là dùng thật nhiều thời gian tìm kiếm những người tổ trưởng phù hợp. Những người tổ trưởng cố gắng thực hiện những hợp đồng của họ. Điều đáng chú ý là mối quan hệ vững chắc giữa người tổ trưởng và người thực hiện hợp đồng không nhất thiết tạo ra kiểu mối quan hệ chủ - thợ giữa người tổ trưởng với cách thành viên trong tốp. Cái có vẻ như quyết

(9)

định những mối quan hệ này dù người tổ trưởng là người nông thôn ra hay đã trở thành một cư

dân “tạm trú” kiểu mấy năm ở Hà Nội. Trong trường hợp người tổ trưởng là người nông thôn, những mối quan hệ xã hội như kiểu thủ công giữa tổ trưởng và các thành viên trong tổ là phổ biến.

Hơn nữa, những người tổ trưởng là người nông thôn không tích cực tìm việc ở Hà Nội, mà dựa vào những người thực hiện hợp đồng để tìm được những cơ hội có việc hoặc đơn giản là dựa vào tiếng tăm một thơ có tay nghè của chính họ. Sự ổn định của sự sắp xếp công việc này được quy định bởi những bảo đảm về sự tăng cường chung. Thực tế, người tổ trưởng ít có lý do để tìm kiếm một người thực hiện hợp đồng mới với điếu kiện người thực hiện hợp đồng có thể có đủ công việc ổn định.

Ngược lại, người tổ trưởng nào là người "tạm trú" Hà Nội thì nửa là người nông thôn, nửa là người kinh doanh. Phần lớn thời gian anh ta dùng vào việc xây dựng những mối quan hệ xã hội với những chủ thầu ở trong và ngoài khu vực nhà nước. Mục đích là nhằm mở rộng thị trường của anh ta. Thời gian dành cho việc thiết lập những quan hệ xã hội mở rộng này tạo ra một kiểu quan hệ quản lý giữa người tổ trưởng và các thành viên trong tổ. Mặt khác, người tổ trưởng này chỉ thăm nom những địa điểm xây dựng chứ không cần làm cùng với thợ. Anh ta không chờ việc làm mà rất tích cực tìm kiếm. Hơn nữa, quản lý càng lâu anh ta càng có thể phải chọn một trong số các thành viên trong tổ làm “phó” cho tổ trưởng. Hơn nữa, cái quá trình phân công lao động này

đang ngày càng tăng, thể hiện hình thức văn hóa - xã hội thông qua những khoản tiền lương không công khai và những tiền thưởng dành cho các thợ xây có năng suất cao. Nhưng, giống như

mối quan hệ xã hội kiểu thủ công, các thành viên tổ thường là cùng làng và “ký” với nhau qua miệng thôi. Tuy vậy, trong những tham vọng và sắp xếp quan hệ xã hội này, những tổ trưởng này sẵn sàng thay thế hơn là đào tạo những thợ kém tay nghề. Đây là sự khác nhau so với loại tổ trưởng “đồng nghiệp” duy trì mối quan hệ xã hội theo kiểu “thủ công” với các thành viên trong tổ.

Loại thứ ba (Sơ đồ 5), những quan hệ xã hội “thứ bậc” (hierarchical) là một loại gần đây hơn, vẫn là hiện tượng không phổ biến, nó giới hạn đối với những địa điểm xây dựng lớn nhất và

đầu tư nhiều nhất. ở đây, sự phối hợp của phân công lao động theo chiều dọc và sự có mặt của

“chủ làm khoán” ở những mức độ khác nhau của hệ thống này thường đưa đến thiếu sự thống nhất mục đích. Những người lao động nông thôn vào được thị trường lao động xây dựng này qua những mối liên hệ của người tổ trưởng của họ với những đội trưởng (hoặc kỹ sư) ở bậc cao hơn và những người khác, những người là đại điện cho một bộ phận hay đại diện cho toàn thể đàm phán những hợp đồng phụ vơí những tổ trưởng. Những người tổ trưởng này có trách nhiệm giám sát, quyết

định và phân phát tiền công cho các thành viên khác trong đội.

Hai loại quan hệ chủ-thợ tồn tại đồng thời trong mối quan hệ với bất kỳ người thợ nào do sự phân công lao động này. Thứ nhất là những mối quan hệ xã hội chính thức của sự hợp nhất trong cơ cấu thứ bậc. Đặc biệt, người công nhân ký hợp đồng lao động, có bảo hiểm, và qua những khoá an toàn lao động trước khi có được giấy phép chính thức để làm việc. Thứ hai mối quan hệ phi chính thức nhất có ý nghĩa hơn. Đó là mối quan hệ giữa tổ trưởng và các thành viên trong tổ.

Lý do nói mối quan hệ phi chính thức này là có ý nghĩa rất dễ hiểu. Hợp đồng nhiều cấp độ phụ khuyến khích những người thực hiện hợp đồng ở mỗi mức tiết kiệm chi phí. Cách thứ nhất để làm được điều này là khuyến khích năng suất cao hơn. Khi mức độ năng suất đạt được thì đội

được trả mức giá hợp đồng đầy đủ mà không mất thời gian và tiền bạc. Cách thứ hai là thuê những công nhân sẽ đồng ý với giá hợp đồng thấp hơn.

Việc thuê những công nhân tay nghề kém là khá phổ biến trong những giai đoạn đầu của một dự án xây dựng. Điều này không nhất thiết là một vấn đề, trừ phi tổ trưởng giống với người tổ

(10)

trưởng đồng nghiệp đầy tham vọng được miêu tả ở trên (loại 2). Nếu như vậy, khi đó anh ta sẽ dành ít thời gian cho việc giám sát công nhân thi công và hợp đồng sẽ bị phá vỡ do sự bất lực của anh ta nhằm chu toàn hợp đồng. Nếu hợp đồng không bị phá vỡ, thì thời gian thêm để hoàn tất hợp đồng sẽ dẫn đến hậu quả là giảm tiền lương của công nhân khi mà thu nhập chỉ là phần trăm tổng giá trị hợp đồng.

Một tình trạng tích cực hơn đang tăng lên trong những trường hợp khi những công nhân kém tay nghề được người tổ trưởng theo dõi và giám sát chặt chẽ, người đã coi công việc của anh ta là một bước tiến hơn là bước lùi trong bậc thang kinh tế-xã hội. Không phải ngạc nhiên về điều này khi mà một cá nhân là một cư dân nông thôn. Anh ta cũng không phải đến từ một làng nổi tiếng về tay nghề xây dựng. Người tổ trưởng sẽ quản lý kỹ lưỡng thợ thi công cốt để giữ được công việc cho toàn tổ. Và nói chính xác là do mối liên hệ một chiều với một người ở trên, và không có danh tiếng gì của một thợ thủ công và những mối liên hệ xã hội với những nhân viên nhà nước chính thức, làm anh không thể có khả năng tìm được những hợp đồng độc lập và cải thiện vị trí của anh ta.

2. Hàng nhựa gia dụng và hàng xén (hàng tạp hóa): các mối quan hệ xã hội của việc tham gia thị trường - buôn bán

Hà Nội từ trước đến nay luôn có thị trường hàng xén. Gần đây nhu cầu tiêu dùng đồ nhựa gia dụng là một hiện tượng mới nổi lên. Không chỉ có những siêu thị dành cả hàng cột riêng cho hàng nhựa gia dụng, mà còn được nhiều người bán rong hàng này cho thấy một “làng nghề” mới

đang hình thành. Mặc dù có một số khác nhau giữa những xã tham gia hai lĩnh vực kinh tế này, cách sắp xếp của mối quan hệ xã hội mà chống đỡ những dòng chảy hàng hóa này lại gần giống nhau để có thể nói cả hai thị trường như là một.

Một đặc điểm về thị trường này là sự mở rộng của nó. Nói riêng về mặt hàng nhựa, thị trường Hà Nội bị hàng sản xuất tại thành phố Hồ Chí Minh khống chế. Do sự ưa thích của người Hà Nội, hàng đồ nhựa do Trung Quốc sản xuất và hàng sản xuất ở ngoài Hà Nội không bán chạy

được. Về mặt hàng xén, những người bán rong nhập hàng từ những người cư dân nông thôn-buôn bán nhỏ chuyên chở hàng từ Lạng Sơn, Quảng Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, họ cũng lấy hàng qua những người buôn khác ở Hà Nội.

Người cư dân nông thôn kiếm sống ở Hà Nội có thể thấy ở những điểm khác nhau trong 3 loại dòng chảy hàng hoá có thể thấy được qua nghiên cứu thị trường này ở Hà Nội (xem Sơ đồ 6 - 8). Trong thị trường đồ nhựa và hàng xén, họ là những người bán rong, và những người bán buôn nhỏ và vừa (không bán rong). Một số tạm trú ở Hà Nội, và những người còn lại đi lại hàng ngày từ nông thôn vào Hà Nội.

Cũng như khu vực xây dựng, màng lưới kinh tế này được củng cố qua các quan hệ xã hội.

Và, cũng như nền kinh tế của ngành xây dựng, thời gian bắt đầu và vị trí trong thị trường hình thành loại quan hệ xã hội trong lưu thông hàng hóa. Nhưng, khác với ngành xây dựng, mối quan hệ xã hội tương đối ít phức tạp hơn. Chúng bao gồm “độ tin cậy cao” (high trust); “tin cậy thấp”

(low trust) và “không tin cậy” (no trust). Mức độ tin cậy được đo bằng “tín dụng bình dân” có sẵn (availability of common credit) theo kiểu “bán chịu” và tần số của việc theo dõi sự thỏa thuận giữa người mua và người bán hàng.

Sơ đồ 6: Mối quan hệ x∙ hội độ tin cậy cao (loại 1)

Nơi sản xuất Người bán buôn

nhỏ/bán lẻ (có cửa hàng)

(11)

Độ tin cậy cao

Độ tin cậy thấp Độ tin cậy thấp Không tin cậy

Người bán buôn lớn (ở Hà Nội và các thị xã

xung quanh)

Người bán rong ở Hà Nội

Sơ đồ 7: Mối quan hệ x∙ hội độ tin cậy cao (loại 2)

Độ tin Không tin cậy cậy thấp

Không tin cậy

Không tin cậy

Tin cậy cao

Các chợ biên giới TP Hồ Chí Minh

Các chợ lớn ở Hà Nội (Người bán buôn lớn)

Người mua buôn (chủ cửa hàng Hà Nội

và ngoài tỉnh)

Người mua lẻ (người sử dụng và

người bán rong) Người bán

buôn nhỏ (ở nông thôn)

Sơ đồ 8: Mối quan hệ x∙ hội có độ tin cậy thấp

Không tin cậy * Không có độ tin cậy cao Các chợ biên giới TP

Hồ Chí Minh

Độ tin cậy thấp Người bán

buôn nhỏ (ở nông thôn)

Người bán rong ở Hà Nội

Như nhiều nhà kinh tế học nói, vai trò của sự tin cậy trong nền kinh tế rất quan trọng về việc phát triển kinh tế. Nhưng, quan hệ buôn bán xây dựng trên sự tin cậy cũng có thể là việc rủi ro. Do đó, phải tốn thời gian để phát triển và bảo vệ giá trị của quan hệ này hoat động trong các loại thể chế xã hội liên quan. Ví dụ, ở một số nước có sự tin tưởng rằng hợp đồng là một thể chế thiêng liêng và “giá cả” cần phải “hợp lý”. Qua phỏng vấn những cư dân nông thôn buôn bán cho thấy rằng việc phát triển mối quan hệ tin cậy lẫn nhau cũng cần dựa trên nền tảng có ý nghĩa của vốn kinh tế. Do vậy, không phải mọi người buôn bán đều có thể phát triển mối quan hệ như vậy và có trường hợp họ chủ động tránh loại quan hệ xã hội này. Hơn nưa, cũng nên lưu ý rằng loại quan hệ xã hội giữa người mua và người bán không phải lúc nào cũng là sản phẩm của sự lựa chọn. Ví dụ, quan hệ tin cậy cao có thể được áp đặt cho người bán,trong khi quan hệ không tin cậy có thể chỉ là sự lựa chọn của người mua hàng.

Nhưng, mối quan hệ xã hội cho thấy trong lĩnh vực kinh tế đồ nhựa và hàng xén có đặc

điểm không có trong lĩnh vực xây dựng. Trong thị trường đồ nhựa gia dụng và hàng xén, chúng ta có thể thấy các loại quan hệ xã hội trong quá trình lưu thông hàng hóa. Độ tin cậy cao trong lưu thông hàng hóa là đặc trưng phân biệt căn bản quan hệ xã hội.

(12)

Trong trường hợp thứ nhất, tin cây cao bắt nguồn từ điểm bắt đầu (nơi sản xuất) của lưu thông hàng hóa. ở đây, người sản xuất trên cơ sở có vốn lớn, cung cấp hàng bán chịu cho các nhà buôn cỡ lớn và nhỏ trên toàn quốc. Loại quan hệ này hết sức quen thuộc giữa các nhà sản xuất đồ nhựa gia dụng ở thành phố Hồ Chí Minh và các nhà buôn miền Bắc Việt Nam.

Mức độ tin cậy cao trong loại quan hệ xã hội “tin cậy cao” chịu ảnh hưởng của thời gian người mua và người bán có quan hệ với nhau, khả năng của người mua để xây dựng một “hồ sơ tín dụng tốt” (good credit record) với nơi sản xuất, và tình trạng thị trường đang thay đổi. Loại quan hệ xã hội này có hình thức về sự khác biệt về quyền mua chịu với chính sách mềm dẻo người mua

được hưởng mà đa số người không thể hưởng được. Ví dụ, người bán buôn có thể dễ trả lại hàng bị hỏng hay hàng ế không bán được mà không bị phạt đền. Sự mềm dẻo của người sản xuất cũng do sự cạnh tranh đối với những người sản xuất khác. Nhưng, sự cạnh tranh này không phải là có từ lâu. Hơn nữa, vì sự cạnh tranh càng ngày càng tăng lên, thì nó đang tác động tới những thuận lợi của những người bán buôn (người mua từ nơi sản xuất). Họ bây giờ có thể mở rộng số lượng cung (extend their supply), số lượng người cung ứng (volume of suppliers), thậm chí mở rộng nguồn tín dụng cung ứng (source of supplier credit). Hơn nữa, tình trạng thị trường này đã hạ thấp giá trị của mối quan hệ lâu dài với người sản xuất. Trong khi đó các mối quan hệ có độ tin cậy cao vẫn còn được xây dựng bước đầu dựa trên việc trả một số tiền đặt cọc nhỏ về hàng hoá và có lẽ việc đi vào thành phố Hồ Chí Minh để thành lập các mối quan hệ cá nhân những bước khởi đầu mới có chút ít dễ dàng hơn. Những người mới bước đầu vào thị trường này được hưởng một tình trạng dễ hơn so với những người vào sớm hơn. Hiện nay, họ chỉ cần trả nợ một hoặc hai lần đúng thời hạn cho người sản xuất. Sau đó, họ không cần đặt cọc hoặc là đi vào thành phố Hồ Chí Minh nữa. Tóm lại, không chỉ là những người sản xuất mà cả những người vào thị trường đồ nhựa sớm nhất càng ngày càng đánh vật với cạnh tranh.

Trong trường hợp thứ hai, cái mối quan hệ xã hội có độ tin cậy cao được đặt tại trung tâm của quá trình lưu thông hàng hóa. ở đây, quá trình lưu thông hàng hóa bắt đầu với những người cư dân vùng nông thôn bán rong, nhưng mà không dễ nhìn thấy bằng những người bán trên các phố Hà Nội. Đây là những người thường nói “chỉ buôn bán nhỏ thôi”. Họ đi khắp nơi từ Trung Quốc, Thành phố Hồ Chí Minh, Lạng Sơn và Quảng Ninh để mua nhiều mặt hàng để bán cho các chủ quầy hàng ở các chợ Hà Nội. Vì đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào một số lĩnh vực kinh tế, chỉ có thể cho biết rằng loại bán rong này chủ yếu mua và bán hàng xén, quần áo và vải. Qua mấy cuộc phỏng vấn chúng ta cũng biết rằng họ trước đây có bán đồ nhựa và hoa qủa Trung Quốc.

Nhưng, vì không thể bảo đảm lãi suất, họ bỏ những mặt hàng này. Hơn nữa, khác với những người buôn bán lớn mà đầu tư vào cái quầy trên chợ hoặc là một cửa hàng, những người này sống trên nhiều xã ở miền Bắc. Và, trong nhiều trường hợp, loại người bán rong này gốc từ một xã

trước đây hay là vẫn còn một nghề gia truyền. Nhưng, hình như mặt hàng bán không cần thiết có liên hệ với nghề gia truyền. Hơn nưa, mặc dù không tạm trú ở Hà Nội, có lẽ họ có độ di động cao hơn. Thực tế, một ngày thường của người bán rong này gồm chuyến đi để mua hàng hay là chuyến

đi để bán hàng ở Hà Nội. Và, mặc dù nông nghiệp như là một nghề phụ khi tính họ sử dụng thời gian hàng ngày như thế nào, đa số người được phỏng vấn khi được hỏi “nghề chính của gia đình là gì?”, vẫn trả lời "nông nghiệp".

Độ di động của những người bán rong này có nhiều lý do. Thứ nhất, mỗi lần đi mua hàng họ chỉ mua số lượng nhỏ. Do đó, họ cần phải thường xuyên đi cung cấp thêm hàng hóa. Hơn nữa, do giá cả trong lĩnh vực kinh tế này dao động nhiều, họ luôn luôn tìm kiếm giá cả thấp nhất. Kết qủa là họ thường thay đổi người cung cấp hàng và có ít cơ hội để phát triển mối quan hệ có “độ tin cậy cao” với họ. Ngược lại, họ phát triển mối quan hệ có độ tin cậy cao với người mua hàng của họ

(13)

(người buôn bán lớn) được đặt vào vị trí giữa những người cư dân nông thôn “buôn bán nhỏ” và những người mua lẻ.

Do cơ cấu lưu thông hàng hóa này, chính là người buôn bán lớn được hưởng độ tin cậy cao của người buôn bán nhỏ. Hệ thống này không phải lúc nào cũng tốn tại, nhưng nó trở thành thông lệ từ khoảng 1993 khi mà ngày càng nhiều người nông thôn đi vào buôn bán. Đây là một trường hợp về mối quan hệ xã hội ở mức “tin cậy cao” không phải qua lựa chọn. Thực tế, nếu những người cư dân nông thôn này không bán chịu, những người bán buôn sẽ tìm nguồn cung cấp khác. Hơn nữa, vì vốn cơ bản của người nông thôn buôn nhỏ qúa nhỏ (từ 4.000.000 đến 6.000.000 đ) nên họ dành nhiều thời gian để củng cố mối quan hệ “tin cậy cao”. Họ thực hiện một cách thừơng xuyên, hầu như ngày nào cũng tới thăm những chủ quầy. Mục đích của những chuyến này có lẽ là để gây cảm tình với các chủ quầy và như vậy tăng lên xác suất bán hơn nữa và thu được một số tiền chủ quầy đã chịu. Nhưng qua nhiều cuộc phỏng vấn cho thấy họ thường đợi lâu tới 2 tháng để được trả

tiền. Cái này gây cho những người bán chịu phải vừa liên tục tìm kiếm những nguồn cung cấp hàng giá hạ vừa đi thăm chủ quầy để giám sát chặt chẽ hoạt động kinh tế.

Trong Sơ đồ 8, mối quan hệ có độ tin cậy cao không tồn tại. Lý do hết sức đơn giản là các nhà buôn không có đủ vốn cơ bản để chịu độ tin cây cao. Ngược lại, họ cần phải thường xuyên bổ sung vốn hoạt động. Mặc dù tình trạng này tương tự với kiểu mô tả trên có sự khác nhau cơ bản.

Những người buôn bán nhỏ trong hệ thống này hoạt động trong một phạm vị thị trường khác nhau và có thêm nguồn cung cấp. Ngoài nguồn cung cấp hàng hóa kể trên, những người buôn bán nhỏ này cũng lấy hàng từ người buôn bán lớn như được mô tả trong sơ đồ 6 và 7. Mặc dù vậy, những người buôn bán nhỏ này cũng giống như những người buôn bán nhỏ trên là cả hai chủ yếu là người ở nông thôn chứ không phải là tạm trú ở thành phố. Song không giống như người buôn bán nhỏ cố gắng hết sức bán cho những chủ hàng ở chợ. Những người buôn bán nhỏ này bán hàng cho người làng họ và những người làng đó lại mang hàng ra Hà Nội bán rong trên phố.

Vốn cơ bản hạn chế của loại người buôn bán nhỏ này là lý do cơ bản tạo nên quan hệ “tin cậy thấp” giữa cả người bán và người mua. Trước tiên, nếu người bán hàng này chọn mua hàng trực tiếp ở các chợ xa, họ phải trả tiền ngay khi mua hàng. Nhu cầu tài chính của cách mua này không cho phép họ lại bán chịu hàng cho người mua (người cùng quê). Thay vào đó, người làng

“mượn” hàng để buôn bán. Loại hàng và số lượng hàng được ghi vào quyển sổ nhỏ để tính toán trả

tiền sau. Nhưng những người “mượn” hàng này để bán rong ở Hà Nội phải trả lại hàng họ không bán được trong vòng 1-2 ngày. Thứ hai, nếu người cung cấp hàng cho người bán rong dựa vào một người buôn bán lớn (như nêu ra trên kia), thì họ được “điều chỉnh” của người buôn bán lớn số lượng được mua chịu. Như vậy, tình trạng này khác với những người buôn bán được cung cấp hàng trực tiếp của nơi sản xuất. Người buôn bán nhỏ không được chính sách mềm dẻo của nơi sản xuất mà người buôn bán lớn được hưởng. Mặc dù nguồn cung cấp này cho phép những người có số vốn buôn bán nhỏ tham dụ thị trường này, họ vẫn bị hạn chế chính vì quy mô thị trường chỉ là làng xã

và các vùng xung quanh. Do vậy, họ không thể mở rộng thị trường của họ. Ngược lại, nó tạo ra tình thế chỉ cho phép từ 1-4 người làng có thể buôn bán tại làng còn những người khác phải bán rong ở Hà Nội. Tất nhiên, cách buôn bán này chỉ phát triển được ở những vùng nông thôn quanh Hà Nội và do cách mua bán những người “mượn” hàng cho bán rong không tạm trú ở Hà Nội.

Những người bán rong lang thang khắp phố Hà Nội nằm ở vị trí gần cuối trong các sơ đồ này. Họ may nhất hưởng lợi của mối quan hệ xã hội tin cậy thấp đối với người làng cung cấp hàng cho họ (xem sơ đồ 8). Song, cấu trúc này chỉ là ngoại lệ, không phải là quy luật. Lấy trường hợp một số lớn người từ Hưng Yên ra Hà Nội tạm trú kiếm sống làm ví dụ. Hàng hóa họ mua được ở chợ quanh Hà Nội. Nguồn cung cấp nhiều nhất ở chợ Phùng Hưng (đồ nhựa gia dụng), chợ Long

(14)

Biên (hoa qủa), chợ Đông Xuân (hàng xén, quần áo và đồ nhựa). Mặc dù có người cung cấp những hàng này tại bãi Phúc Tân và bãi Phúc Xá, người bán rong ít khi mua hàng tại đây. Mỉa mai thay nhiều mặt hàng họ mua là hàng của người nông thôn các vùng khác được bán cho các chủ quầy.

Chính những người bán rong ít buôn bán theo sự tin cậy của khách hàng và sự tin cậy của họ vào khách hàng lại càng hiếm hơn. Tốt hơn hết, họ trao đổi hàng hóa giữa bạn hàng rong, bắt chước các mẫu hàng vay mượn trên cơ sở lưu thông hàng hoá được mô tả trên (xem sơ đồ 8).

IV. Chợ, nền kinh tế thị trường, vấn đề di dân và kinh tế nông thôn Như đã trình bày ở trên, thị trường lao động dân nông thôn ở Hà Nội là hết sức đa dạng.

Nó được phân hóa bằng các cơ hội và nghề nghiệp nằm trong và giữa các khu vực kinh tế. Đối với lao động xây dựng ở Hà Nội, chúng ta thấy những người dân nông thôn làm việc ở các vị trí như

người quản lý, người lao động và thợ thủ công. Sự phân khoảnh của thị trường này không đơn giản do trình độ các kỹ năng khác nhau mà còn là do các loại mối quan hệ xã hội. Rõ ràng làm việc trong những công trường xây dựng lớn nhất không tạo ra thu nhập cao nhất cho lao động nông thôn. Nhưng đối với nhiều người dân nông thôn thì đó là viễn cảnh từng bước rời khỏi công việc ruộng đồng. Nhưng vì họ thường chỉ có mối quan hệ xã hội trong thị trường này mỏng manh như

một sợi tóc, thì ít khi có trường hợp họ trở thành được một tốp làm tư nhân ở Hà Nội. Ngược lại, công việc của họ là làm theo kiểu tạm thời mà dài hạn. Họ lang thang hết công trường này sang công trường khác và ít khi vào thị trường lao động xây dụng chung. Thực tế, sự sắp xếp theo mới quan hệ xã hội thứ bậc nêu trên tạo cho họ một vị trí đặc biệt vừa không thuộc vừa không ngoài biên chế.

Có lẽ cũng có thể cho rằng những thợ thủ công thu nhập được nhiều nhất trong thị trường lao động xây dựng Hà Nội. Nhưng, điều này không vững chắc. Khi họ có mối quan hệ xã hội mở rộng ở Hà Nội, tay nghề cao và danh tiếng của họ rất cao giá. Mặc dù có thể thấy một số thợ thủ công trên các công trường lớn, nhưng họ thường chỉ được làm ngắn hạn những việc những thợ khác không thể làm được. Hơn nữa, những thay đổi cơ cấu trong thị trường xây dựng, bao gồm các chính sách mới về xây dựng nhà ở có ảnh hưởng tới những thợ thủ công mà không thể đáp ứng nhu cầu nhận thầu xây dựng độc lập nữa. Về một số phương diện, sự thay đổi này có thể thấy rõ ở xã Nội Dụê (Tiên Sơn, Bắc Ninh). Chỉ cách đây 4 năm, thợ xây dựng gốc từ đây được mô tả “đang khống chế” thị trường lao động xây dựng Hà Nội (xem Li, 1993). Giờ đây hình ảnh này không còn nữa. Nhiều thợ xây Nội Dụê đã chuyển sang làm việc ở các tỉnh khác.

Người dân nông thôn tham dự thị trường đồ nhựa và hàng xén cũng được phân nhóm theo mối quan hệ xã hội khác nhau. Nhưng, tác động kinh tế có thể rộng hơn khu vực xây dựng. ở đây, mối quan hệ tin cậy được xây dựng trên “tín dụng bình dân”. Như vậy, mở rộng thị trường thì nợ nần cũng mở rộng theo. Do ảnh hưởng của vụ cháy chợ Đồng Xuân và những mất mát về kinh tế mà người dân nông thôn buôn bán nhỏ phải chịu, làm cho họ nhận ra tính dễ bị mất vốn, họ chưa chắc tìm ra được tỷ lệ trao đổi tốt hơn ở đâu. Những bảo đảm vẫn có giám sát theo hai loại hợp

đồng không văn bản gọi là “đồng tình” và “thường xuyên” lui tới, đo bằng số lượng chuyến đi chợ thăm chủ quầy để nâng ý thức của chủ quầy lên và do vậy đảm bảo thị trường và kiếm sống của bản thân người dân cung cấp hàng.

Thử so sánh, cái gì có thể học được qua mô tả chỉ tiết các cấu trúc kinh tế trên đây? Nói

đơn giản, thị trường lao động “nông thôn” ở Hà Nội thể hiện mức độ phân công lao động và tình hình nợ nần (different kinds of labor and debt tying arrangements) với hình thức thể chế có thể nhận ra rõ qua các loại quan hệ xã hội. Hơn nữa, những người buôn bán nhỏ và thợ thủ công nông thôn là những người đầu tiên bước vào quá trình thị trường hóa nền kinh tế đô thị và tiếp tục giữ

(15)

mối quan hệ xã hội mở rộng. Nhưng, qua nhiều cuộc phỏng vấn những người này, hình như giá trị của việc bước vào thị trường sớm hay có quan hệ xã hội rộng không đủ bảo đảm thắng lợi về mặt kinh tế ngay ở mức thấp nhất của thị trường Hà Nội. Sự thay đổi cơ cầu kinh tế, bao gồm cả mức

độ cạnh tranh càng tăng lên và những chính sách nhà nước có liên hệ với việc điều chỉnh nền kinh tế càng chặt chẽ hơn, có hạn chế lợi nhuận thu được từ những nhân tố này. Ngược lại, người ở mức

đỉnh của hệ thống thứ bậc người lưu động có dựa vào như tin cậy cao và quan hệ xã hội mở rộng đã

diễn ra một tình thế kinh tế không chắc về mặt kinh tế bằng những nguời ở đáy hệ thống thứ bậc này. Và, nếu các lý luận kinh tế học về vai trò của cơ cấu kích thích có giá trị thì chúng ta có thể dự đoán rằng số lượng người bán rong trên phố và thợ xây sẵn sàng nhận trả công thấp hơn sẽ tăng lên chính vì mức kinh tế rủi ro thấp hơn.

Những phát hiện nghiên cứu trên cũng gợi ra một loạt hướng đi cho nghiên cứu sau này về vấn đề di dân và thay đổi kinh tế - xã hội nông thôn. Trước tiên là tập trung quan tâm hơn các loại liên hệ giữa nông thôn và thành thị. Đây là điểm khởi đầu cho bất kỳ sự phân tích nào về tác

động kinh tế xã hội của di dân ở quê hương và vùng nhận người di cư. Đây cũng là một trong những điểm nên chú ý khi nghiên cứu về vấn đề phân tầng xã hội ở nông thôn. Loại hình nghiên cứu này cần tiến hành với đơn vị phân tích thấp nhất và quy mô nghiên cứu nhỏ. Tiếp theo, các loại mối quan hệ xã hội được mô tả trong bài này cho thấy rằng những người lưu động không phải diện kinh tế “không chính thức” mà là diện nền kinh tế nói chung. Nghiên cứu thêm sau này có thể cho thấy rằng di dân không tính theo “lịch nông nghiệp” mà với “lịch kinh tế”. Tới mức di động dân số không liên hệ với nông nghiệp nữa, thì càng cần thiết tập trung vào hoạt động kinh tế của người lưu động và sự tác động kinh tế xã hội của nó trong các làng xã Việt Nam. Cho đến nay có mấy yếu tố chưa được quan tâm lắm trong những tài liệu sẵn về tác động kinh tế xã hội của di dân. Họ gồm sự phát triển của thị trường lao động nông nghiệp, những sự thay đổi về phân công lao động trong gia đình, những sự thay đổi về pham vị làng - xã và mối quan hệ cộng đồng trong những xã có nhiều người làm ăn xa nhà, và các loại thay đổi xã hội.

Tóm lại, nghiên cứu xã hội học về vấn đề kinh tế nên là một thành phần quan trọng của nghiên cứu tương lai. Đề nghị này không có nghĩa tiến hành một cuộc khảo sát thực địa bằng phiếu, như là nghiên cứu về kinh tế không có nghĩa là chỉ hỏi về lương, nghề nghiệp và số năm có việc làm để khám phá lại vấn đề đói nghèo gây ra vấn đề di dân. Điều giá trị hơn là biết được người ta đang cố gắng giải quyết những hạn chế kinh tế của mình bằng cách nào. Vấn đề này cho phép chúng ta hiểu vai trò của các thể chế xã hội trong nền kinh tế và những sự thay đổi của chúng ra sao và như thế nào.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Cïng víi viÖc x©y dùng vµ ph¸t triÓn kinh tÕ cña khu vùc, xu h−íng ®éi ngò khoa häc lµm viÖc trong c¸c thµnh phÇn kinh tÕ hçn hîp vµ liªn doanh sÏ gia t¨ng... cã

Hai bÒn ®Òu cã tÝnh ®¹i diÖn cao trong ®µm ph¸n trong khu«n khæ mét thÞ tr−êng lao ®éng thèng nhÊt... thÊt nghiÖp cao, hoÆc l¹m

Môc ®Ých chÝnh cña ®Ò tµi nh»m hç trî n¨ng lùc viÕt bµi cña c¸c nhµ nghiªn cøu trÎ cña ViÖn X· héi häc, mét trong nh÷ng kü n¨ng quan träng trong ho¹t ®éng

Thứ ba, luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực gia đình mặc dù đã được ban hành khá đầy đủ, nhưng việc thực hiện trong thực

Thùc tÕ nµy sÏ lµm n¶y sinh nh÷ng vÊn ®Ò, nh÷ng m©u thuÉn gi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ vµ nh÷ng vÊn ®Ò cña trÎ em nãi chung vµ viÖc thùc hiÖn quyÒn trÎ em nãi

VËy cho nªn, nhiÒu n-íc cã b¶o tµng vò khÝ ®Ó nãi lªn sù ph¸t triÓn lÞch sö cña vò khÝ g¾n liÒn víi sù ph¸t triÓn cña khoa häc vµ c«ng nghÖ, vµ sù ph¸t triÓn kinh tÕ

điểm lâm sàng của viêm phổi do phế cầu không có sự khác biệt so với lâm sàng của viêm phổi do một s nguyên nhân khác (viêm phổi do vi khuẩn không điển hình, h n hợp phế

Chñ nhiÖm hoÆc Ban chñ nhiÖm Nhµ v¨n hãa-Khu thÓ thao th«n ho¹t ®éng theo nguyªn t¾c kiªm nhiÖm, tù qu¶n, tù trang tr¶i tõ nguån kinh phÝ x∙ héi hãa vµ hç trî cña ng©n