TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, số 3 (65), 5-2020 153
ẨN DỤ Ý NlẩM "NGƯỜI PHỤ NỮ LÀ HÀNG HÓA"
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU THÊ KỶ 20
PHẠM THÙY GIANG *
* ThS - Khoa Tiếng Anh, Trường ỳại học Thương mại; Email: giangmrchip@yahoo.com Tóm tắt: Ản dụ ý niệm “Người phụ nữ là hàng hóa” được
đề cập nhiều trong các tác phẩm văn học Việt Nam nửa đẩu thế kỷ 20. Bài viết này đì sâu tim hiểu cơ chế ánh xạ trong ẩn dụ ý niệm này và các quan hệ logic ẩn chứa trong đó, từ đó làm rõ đặc trưng rư duy, văn hóa của người Việt.
Việc sử dụng ẩn dụ ý niệm này cũng cho thấy thân phận đáng thương cùa người phi nữ trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Từ khóa: Ân dụ ỷ niệm, miền nguồn.
phụ nữ, hàng hóa, miền đích,
Abstract: The conceptual metaphor “Women are commodities” is employed a lot in Vietnamese literary works in the first half of the 20th century. This article investigates the mapping mechanism of this metaphor and underlying logical relaticns, thereby clarifying the characteristics of thinking and culture of Vietnamese people. The adoption of this conceptual metaphor also shows the pitiful status of women in Vietnamese society at that time.
Keywords: Conceptual metaphor, women, commodities, target domain, source domain.
1. Đặtvấnđề
“Cuộc cách mạng Lakoff - Johnson” gắn liền với cuốn sáchkinh điển Metaphorswe livehy (Chúngta sống bằngẩn dụ) của LaknffvàJohnson (1980) đã làmthay đổi tư duy khoa hoc về ngôn ngữcủa nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới và bùng nổ một trào lưunghiêncứu mới vềẩn dụ. Không chỉ đơn thuần là phép tu từ và phương thức chuyển nghĩa của từ, ẩndụ,theo quan điểm củangônngữ học tri nhận, là công cụtư duyđắc lực giúp tahiểu mộtmiền ý niệm nàythông qua mộtmiền ý niệm khác. Với tuyênbố giương cao ngọn cờ “Dì nhân vì trung” (lẩy con người làm trung tâm), ngon ngữ học tri nhận đĩ nhiên có gắn bó chặt chẽvéi khoa họcvề con người
(nhân học/nhân chùng học). Những cách nhìn nhận về con người,về những hành động, suy nghĩ và bản sắc của mồi cá nhân trong xã hộiđềuxuấthiện ưong các học thuyết, nghiên cứu và phương pháp luậncủa ngôn ngữ học tri nhận. Án dụ ýniệm về người phụ nữcũng được sử dụng khá nhiều trong các tác phẩm văn họcViệtNam nửa đầu thế kỷ 20. Có thể nóiẩn dụ là hơi thở và diệnmạo của cáctácphẩm văn học.
Trong bài viêt này, tác giã tìm hiểu cấu trúctầng bậc cùaan dụ ýniệm“Ngườiphụ nữ là hàng hóa”thông qua việc phân tích sơ đồánh xạ từ hai miền không gian ương tư duyngôn ngữ của người Việt.
2. Cơ sở lý thuyết
2.7. Miến, miền nguồn, miền đích
Một miền ýniệm ỉà “một tổ chức kinh nghiệm tương hợp” [9, tr.4]. Miền nguồn là miền ý niệm mà từ đó chúng ta rút rađược các biểu thức ngôn ngừ an dụ cụ thế để có thể hiểu được một miền ý niệm khác. Miền đích là miền ý niệm được hiểu thông quaviệcsừ dụng miền nguồn.
2.2. Ảnh xạ
Anh xạ làquátrình phóng chiếu từmiền nguồn đến miền đích. Sơđồ ánh xạ là một hệ thống cổ định các tương ứng (correspondences) giữa các yếu tố tạo thành miền nguồnvà miền đích[9,tr.7].
Xác lập được sơđồ ánh xạ giữa mộtcặp nguồn - đích chính làchìa khóa tìm hiểuvề ẩn dụ ỷ niệm.
2.3. Ẩn dụvà ấndụ ỷ niệm
Ẩn dụ, theo cách hiểu truyền thống, là lấy tên đôi tượngAđê gọi tên đối tượng B dựa trên cơsờ sự giốngnhau giừa haiđối tượng này về màu sắc, hình dáng, kích thước, chức năng,... là sự chuyển đối tên gọi căn cứvào sự giốngnhau giữa các sự
154 NHỮNG CHUYẾN NGÀNH LIÊN QUAN
vật, hiệntượng đượcso sánh (NguyễnThiện Giáp, 2005). Nói cách khác,ẩn dụlà phép gọitên mộtsự vật bằng têncủa một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được quan hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm (Nguyễn Văn Tu, 1960). Hữu Đạtcũng địnhnghía:“Ấn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra”[1,tr.409].
Theo quanđiểm củangôn ngừ họctri nhận, ẩn dụ ý niệm là một cơ chế tri nhận nhờ đó logic của nhữngkhải niệm có tínhtrừu tượng được thay thế bằng logiccủanhững khái niệmcótính cụthể hom.
Cơ chế tri nhận của ẩn dụý niệm liên quan đếnhai miền là miền nguồn và miền đích tồn tại tiền giả địnhtrongỷ thức con người. Ần dụý niệm là một sự chuyển đi (transfer) hay một sự ánh xạ (mapping) cấu trúc vàcác quan hệnội tại củamộtlĩnhvực hay mô hình tri nhận “nguồn”(source)sangmộtlĩnhvực hay mô hình tri nhận“đích” (target) [10, tr.25]. Như vậy, ẩn dụ chủ yếu dựa trên những sự tương ứng (correspondences) trong kinh nghiệm hơnlà sự“tương đồng” (LýToàn Thắng, 2015). Tương tự, Lee (2016) cho rằng ẩn dụ ý niệm là“công cụý niệm hóa một miềntrải nghiệm này sang một miền khác” [3, tr.22].
2.4. Chuỗi kết nối vĩ đại củasự tồn tại(The great chain ofbeing)
Đẻ có thểphân tích cácgiá trị ẩnchứa trongẩn dụ ý niệm “Người phụ nữ là hàng hóa”, tác giả tìmhiểu Chuỗi kết nối vĩ đạicủasự tồn tại (The greatchain of being). Theo Kovecses(2010),đây là môhình miêu tả mối quan hệ giữa cácsinh vật và các thuộc tính gắn liền với chúng theo thứ bậc đượcxếp theothứ bậc từ caoxuống thấp theo chiều thẳng đứng.
Có hai phiên bản của Chuồi kết nối vĩđại của sự tồn tại: cơbản và mở rộng. Phiên bàn cơ bàn chỉ ra mối quan hệgiữaconngười vớicác bậc thấp hơn. Mô hình này phần lớn vô thức và cơ bản vì nhiều khi chúng ta sử dụng nó mà không hề đê ý hay nhận thức được điểu đỏ. Trong khi đó, mô hình mở rộng đề cập đen mối quan hệ giữa con người với xã hội,Thần linh/Thượng Đếvà vũ trụ.
Bài viết này chú trọng vào mô hình cơ bàn.
Trongmôhình này, con ngườilà bậc cao nhất, vật vô tri vô giáclà bậc thấp nhất. Mồibậc lại được chia ra cácbậc nhỏ hơnvà được sắp xếptheo cấutrúc thứ bậc. Thứ bậc các sinhvậtthểhiện thứ bậc các thuộc tính. Vì vậy để xác định một sinh vật thuộc bậc nào trong Chuỗi này, chúng ta cần phảichú ý đen thuộc tính cao nhất của sinhvật đó. Khi nói đen con người, chúng ta phải đề cập tới thuộc tính bậc cao, đặc trưng cho con người và phân biệtcon ngườivới bậc thấphơn gần nhất (động vật), đó là lý trí thay vì các đặc điểm cơ thể hay dục vọng thú tính.
Theo Kỡvecses, Chuỗivĩđạilà mộthệ thong ẩn dụ giải thích cho“cách các đồvật, sự vậttrên thế giới được ý niệm hóa một cách ẩn dụ như thế nào” (how objects, or things, in the world are conceptualized metaphorically) [9, tr. 172]. Chuồi vĩ đại chỉtrở thành ẩn dụ khi một bậc được sử dụng để hiểu một bậc khác. Sự thấu hiểu này có thể được thựchiện theohai cách: bậc nguồn cao hơn có thể miêu tảbậc đích thấp hơn hoặc ngược lại [9, tr. 154].
3. Ầndụ ýniệm “Người phụnữ là hànghóa” Môhình ẩn dụ ýniệm“Người phụ nữ là hàng hóa”là một ý niệm phảnánh cơ chế nhận thức của người Việtvềthếgiới con người, cụ thể là“Người phụ nữ” thông qua ýniệm về “Hànghóa”. Cơ chế của ý niệm này gồm miền nguồn là “Hàng hóa”, ánh xạ lên miền đích là “Người phụ nữ”. Các thuộc tính về “Hàng hỏa” được sao phòng và phóng chiếu cho “Người phụ nữ”, đồngthời một số đặc trưng của “Hàng hóa” cũng được ánh xạ sang “Người phụnữ”. Theo Từ điên tiếng Việt của Hoàng Phê, hàng hóa được định nghĩa là “Sản phẩm do lao động làm ra, dùng để buôn bán trên thị trường” [4, tr.546]. Những thuộc tính của
“Hàng hóa” được gán cho ỷ niệm đích là “Người phụ nữ”. Do đó, ý niệm “Người phụ nữ” cũng mang nhữngthuộc tính của “Hànghóa”.Sự ánh xạ từ miền nguồn “Hànghỏa” đến miền đích “Người phụ nữ” trong các tác phẩm vấn học nửa đầu thế kỷ 20 đượcthểhiệnqua bảng sau:
Sơ đồ ánh xạ cùa ấn dụ "Người phụ nữ ỉà hàng hóa ” STT Miền nguồn: Hàng hóa ủ’ng với Miền đích: Người phụ nữ
1 Loại hàng hóa ---► Loại phụ nữ, các bộ phận cơ the của người phụ nữ 2 Đặc điểm của hàng hóa ---* Đặc điểm của người phụ nữ
3 Khách hàng ---► Những người xuất hiện trong cuộc đời người phụ nữ 4 Hoạt động với hàng hóa --- ---- - > Hoạt động với người phụ nữ
TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, số 3 (65), 5-2020 155
Từ mô hình ẩn dụ này, có thể thấy cấu trúc tầng bậc củaẩn dụ í niệm “Người phụ nữlà hàng hóa”với4ân dụbật
3.1. Ân dụ bậc dưi
■dưới.
i “Loậphụ. nữ làhại hànghóa Trong ân dụ này, những loại hàng hóa khác nhau, bao gồm: hàng nội hóa, đồăn,đồ vật, động vật, hay món hàng được gán cho các loại phụ nữ khác nhau. Ngoài raicácbộphận hoặc nhữngthứ mà người phụ nữ sở hữu như: thân xác, tuổi xuân, cái vuốt ve, giọnghat, trinh tiết và ái tình cũng bị coi là các mặt hàng. Một số ví dụ tiêu biểu bao gồm:
(ỉ) Tiền không thể bán óc hay bán sức chân tay, thì bản những c^i vuốt ve, bản tuổixuân của mình cho thiên hạ đê không chết đói. (Truyện người hàng xóm- Nam Cao)
(2) Hắn gặp nàng đi bán tơ với mẹ. Hắn đến nhà mẹnàng, và cuộ 2 điều đình chóng vánh như sau này: -Ởđâycó mộtcon gà mảitơ rất đẹp, tôi muốnmua đem về nhà nuôi. (Nửa đêm - NamCao)
(3) Cô hiểu là từnẩy,côbiếnthành đồ chơi cùa nó. Nó thuê bang t en. (Chuyện cùa cô ấy - Nguyễn Công Hoan)
(4) Thể cầnhạng đan bànào? Hai hay một? Ta hay Tàu, hay đầm lair - Bà chị cứ ban cho món hàng nội hóa [5, tr.33]
(5) vì cho sự lấy vợ chỉ là mua máy hát.
(Hồsêlíu hò lỉusẽ sang, Vũ Trọng Phụng)
(6) Thật là: Bảnh Cúc bày sàng. Thuận thiếp, thiếpbản, thuận chàng, chàng mua. (Kỹ nghệ ỉấy Tây - Vũ Trọng Phụng)
(7) Ai tình trên cái thịtrường son phấn cònbán được bằng giá rất cao. (Tềtăn mày- Vũ TrọngPhụng)
Trongcác trích dẫn trên, người phụ nữbị coi như các “mặt hàng” có thể được đemra trao đổi, thuê, mua bán như: đồ vật(máy hát, đồchơi),đồ ăn (bánh đúc), động vật(congà mái tơ). Họcũng phải đem thân xác (nhung cái vuốt ve), tuổi trẻ (tuổi xuân), trinh tiết vệ ái tình cùa minh để trờ thành các món hàng hóa, phục vụ cho đàn ông, cho“thiên hạ”. Loại hảnghóacòn thể hiện ở loại phụ nữ. Trong xã hội nưa đầu thế kỷ 20, dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, những người phụ nừ ViệtNambị coi là các “món hàng nội hóa”, tức là các món đồ trong nước. “Đồ nội hóa” chỉ những người phụ nữ Việt Nam chứ không phải các bà
đầm, bà lai. “Đồ nội hóa” không những được ưa thích bởi người Việt, mà còn được người Tây phương ưa chuộng trên đấtthuộcđịa.
3.2. Ẩn dụ bậc dưới “Đặc điểm của người phụ nữ làđặc điểm cứa hàng hóa”
Đặc điểm là một khái niệm khá rộng, có tính phạm trù vì nó có thểchỉđặc điểm bên ngoàỉ hay tỉnh chất, thuộc tính bên trong. Đối với ẩn dụbậc dưới này, các đặc điểm cúa hàng hóa như: đẹp, mới, chanhcốm,... được dùng để miêutả đặc điểm ngoạihình của người phụnữ. Tuy nhiên, các ẩn dụ nàykhông nhiều có lẽdo có ítsự tương đồng giữa đặc điêm của hàng hóa với ngoại hình của người phụ nữ. Các biêuthức tiêu biểu gồm:
(8) Làng chơicầncái đẹp, cái mới, cái de. (Tết án mày-Vũ Trọng Phụng)
(9) Và, thêmvào sốấy, lại phải có độhai món hàng "chanh cốm” thì mới thật là đầy đủ. (Tét án mày-Vũ Trọng Phụng)
Các ẩn dụ này được hình thành dựa trên sự tươngđồng giữa hình thức người phụ nữ và một món hàng hỏa nhất định. Những người phụ nữ đẹp, trẻ trung “chanh cốm”,... đều là đối tượng được đàn ông ưa thích.
Ngoài ra, tính chất của hàng hóa như: chóng cũ, chóng nát, bền, chóng hỏng, dễ, còn nguyên, hết hạn,... cũng được phóng chiếu để chỉ tính cách, phẩmchất cùa người phụnữ.
(10) .. .liệu ôngcóthích cho những cái ông sắm chóng cũ, chóng nát, chóng hỏng đi không? (Kỹ nghệ lấy Tây - VũTrọngPhụng)
(11) Phải xem nó có ý y còn nguyên, nó còn nguyên...(Hồ sê ỉíu hò líu sê sang- Vù Trọng Phụng)
Trong câu văn(11),người phụnừcòntrinhtiết là mónhàng “còn nguyên”, chưa bóc mác. Vì thế, trinh tiết củangườiphụnừ là điềuvô cùng quý giá để cỏ thể “định giá” một người phụ nữ. Có thể thấy,giá trị củangười phụ nữ được đề cao khi họ vẫn còn trinh, còn con gái. Một khi chừ trinh đã mất đi thì người phụ nừ sẽ bị coi rẻ và khinh thường, chăng khác gìmónhàng “hêthạn”.
Từ đó, ta có thểthấygiá trị của người phụ nữ cũng giống như giá trị cùa hàng hóa. Điều này được thê hiện qua giá cà của các mặt hàng: cao, thấp, rẻ, đát, đạihạ giá, đại giảm giá. Ví dụsaulà
156 NHỮNG CHUYỀN NGÀNH LIỀN QUAN
một điên hình.
(12) Rồi chị nọ dèmpha chị kia. Phỗng tay trên nhau, phả giá nhau. Thí dụ ở một nơi này, một ngườiđang giừ một cái giácao nhưthế này, bồng tự nhiên có một người lạ không biết từ đâu đến nhảy vàogiữa mà treo cái bảng đại giàmgiá chăng hạn thì ông bảo có tứckhông? (Kỹ nghệlấy Táy - Vù Trọng Phụng)
3.3. Ẩn dụ bộc dưới“Những ngườixuất hiện trong cuộc đời người phụ nữ là khách hàng”
Người phụ nữ có thề được coi là người bán hàng. Nhữngmónhàng họ có thể đem rabản gồm:
thân xác, tuổi thanh xuân, trinh tiết,... đà được đề cập đến trong phần trên. Khách hàng ở đây là những người xuất hiện trong cuộc đời người phụ nừ,bao gôm nhữngngườisử dụng các “mónhàng”
mà họ đưa ra, cụ thể là đàn ông. Khách hàng có những đặc điếm đặc như:sộp,chơi hoang, hàtiện, tiêu phỉ,...dựavào cách họ đối đãi với“mónhàng”
mà họ muốn mua hay trao đổi. Tồi tệ hơn, những người chồng cũng được coi là “khách hàng”, là
“bên mua”.
(13) Người lính - chồng hay khách hàng? (Kỹ nghệ lấy Tây- VũTrọng Phụng)
(14) Vì mồi mộtngười chồng- nóiđúng ra, mồi một đời chồng- cùng cógiá trị như một cái giấy chứng chỉ đê tiện việc kiếm chồng, nghĩa là sinh nhai. (Kỳ nghệ lâyTây’ - Vũ Trọng Phụng)
(15) Ông nuôi tôi béo?Thế tôi có trả côngông không? Bên mua, bên bán, ông có quyền gì mà hạch sách? (Đàn bà làgiống yếu -Nguyễn Công Hoan)
Nhưvậy, trong xã hội Việt Nam nừa đầu thế kỷ 20, người phụ nữ dưới thế lực củađồng tiền chấp nhận bán rẻ bản thân, làm nô lệ phụ thuộc vào những dục vọng thấp hèn. Họ chính lànhữngsản phẩm cùa xã hội lai căng thời Pháp thuộc. Trải qua mỗi một đời chồng, người phụ nữ coi như được cấp một “giấy chứng chỉ” để có thểtiếp tục kinh doanh, tiểp tục kiểm kế “sinh nhai” trong những đờichồng - nhừng “khách hàng” tiếptheo. Có thể thấy, khi giá trị củagiađình bị đồng tiền làm ảnh hưởng, hồn nhân bị coi nhưnhững thương vụ làm ăn, trong đó người vợ - người phụ nữ bị coi như những mónhàng khônghơnkhông kém thìcác giá trịtrongxãhội cũng bị đảo lộn.
3.4. Ân dụ bậc dưới “Hoạt động với người phụ nữ là hoạt động với hàng hóa”
Hoạt động, tính chất và nơi diễn ra các hoạt động với hàng hóa bao gồm: mua, bán, lô (vốn), thiệt,bồi thường, tôn kém, ton,đôichác, bảo hìêm, quảng cáo, giữ giá, hạ giá, cạnh tranh, phông tay trên,phá giả, đôi, thuê, trà tiên, săm, chi, mặc cả, đền bù,... được phóng chiếu sang cho hoạt động, tính chất và nơi diễn ra các hoạt động với người phụ nữ. Các trích dẫnsau thê hiện rõ điềunày.
(16) Giai gái đương mua dâm của nhau hay là đã bán dâm cho nhau rồi, hay là đương mặc cả,...
Người nào tốt sổ thì mua được rẻ, được chóng vánh. Kẽ nàovô phúc thì đi rều rệ khắp chợchẳng được, nói mỏi cả mồm. Thậm chí có kè mặc cà không được thìgiảng lẩy, cưóp giật cho kỳ được.
Thành thử gian phònglúc ấy là một thị trường hồn loạn có đủ các cảnh ngộ,... (Giông to- Vũ Trọng Phụng)
(17) Có thuận hòa được với nhau thì giỏi nhất cũng chỉ được đến ba năm. Hết ba năm, hết hạn màanh taphải đổi đi, thìtôi lại sẽ bước thêm một bước nữa. (Kỹ nghệ lấyTây - VũTrọng Phụng)
(18) cuộc nhânduyên nàocũnglà buônbán cả. (Kỹ nghệ lẩyTáy - Vũ Trọng Phụng)
(19) Mày bõ tao đi mà không trả tiền, thế là hết vợ, hết chồng.(Kỹ nghệlấy Tây - Vũ Trọng Phụng)
(20) Thídụ cứ cho là 50me“thất nghiệp” thôi, ta cùng đã có thểđoán trướcđượcnhững sự cạnh tranh hèn hạ, phong tay trênnhau, phá giả nhau.
(Kỹ nghệ lấy Tây -VũTrọng Phụng)
Trong ví dụ(20), nhừng người phụ nữ sẵn sàng trở thành đối thủ “cạnh tranh” của nhau để tranh giành nhau trong sự nghiệp “lấyTây”. Họ không ngần ngại trởthành những mónhàngchođàn ông.
Họ sẵn sànggiờcácthủ đoạnxấu xa như “phỗng tay trên”, “phá giá” để giành cho được các khách hàng nhằm thỏa mãn khao khátkiếmtiền của họ, ở đâychính là các ôngchồng.Họ tính toán sự lồ, lời trong các cuộc hônnhân được coi như là sự “buôn bán”. Như vậy, dưới ngòi bút chân thực của các nhà vãn, người phụ nữ hiện ra thậtđáng thươngvà cũngđáng trách khi quáchạy theo vật chất, bị tha hóa dưới thế mạnh vạn năng của đồng tiền và không ngần ngại đánh đổi tình yêu, gia đinh và nhân phẩm của bản thân.
TỪ ĐĨỂN HỌC & BÁbH khoathư, số 3 (65), 5-2020 157
4. Thảo luận
Theo Chuỗi kếtnổivĩ đại của sự sống, Phụ nữ thuộcbậc Con người với thuộc tính và hành vi bậc cao như suy nghĩ, tính cách, lý trí. Hàng hóathuộc Vật vô tri vô giác với các thuộc tính cấu trúc và hành vi chức năng. Ấndụ “Người phụ nữ là hàng hóa” có cơchế ánh >.ạ từmiền nguồn bậc thấp lên miền đích bậc cao, t ay nói cách khácquá trình ý niệm hóa được thực (hiện từ miền nguồn bậc thấp lên miền đích bậc cao trongChuồi vĩđại cơ bản.
Quátrình ý niệmhóanày đánhđồng người phụ nữ với hàng hóa, các tnuộc tính cao nhất của con người là lý trí,suy n^ìĩ, tình cảm,... mấtđi, khi đó người phụ nữ chỉ còn mang các thuộc tính chức năng của hàng hóa. Như vậy, giá trị cùa người phụ nữ cũng bị giảm đi, thể hiện qua các nghĩa tiêu cực. Có thể nói, phép ẩn dụ liên quan đến hàng hóa cỏ thể lả một phương tiện để diễn tả các đặc điểm mà người phụ nữ không mong muốn.
An dụ ý niệm “Người phụnữ làhànghóa” cho thấy cái nhìn thiên lệí h của xã hội về người phụ nữ. Các phân tích ở rrục 3 cho thấy, việc ý niệm hóangườiphụ nữ là các sản phẩm hàng hóa không những diễn ra trong nhận thức của đàn ông mà người phụ nữtrong xànội xưacũng tự nhận mình là các món hàng hóa trong tay những người đàn ông, bị đàn ông mặc ca, mua bán, đổi chác và sở hữu và coi điều đó là tự nhiên. Theo Kốvecses (2005), yểu tổ ảnh hưémg đến cách sử dụng các biêuthức ẩn dụ trong các ví dụ đượcđưa ra ở phần 3 chính là thực trạng kă hội: “sự khác biệt VC quyền lực trong xãhội dẫn đến sự khác biệttrong cách sữ dụng ẩn dụ củỉ những cá nhân tham gia vào môi quan hệ quyền lực đó” [8, tr.233] và “sự phân biệt nam - nữ đối với các thành viên trong một xã hội sẽ phànánh rhữngcách thức đổi xửđa dạng khác nhau giữa đàn ông và phụ nữ trong tư duy và ngônngữ ẩn dụ” [8,tr.91-92]. Những biểu hiện thiên lệch được chỉ ra trong 4 ẩn dụbậcdưới chính là dấu vết còn sót lại của tư tưởng nam quyền từng tồn tại trongcác xã hội phong kiến ở khu vực Á Đông. Địa vị, bổn phậncủangườiđàn ông và người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội chịusự chi phối mạiìh của ý thức hệ này, cụ thểngười phụ nữ phụ thuốc vào đànôngvà bị đàn ông chi phối. Chính vỉ the, tư tưởng này đẵ phần
nào ảnh hưởng đến hoạt động tri nhận về người phụ nừ trong cộng đồng văn hóa người Việt, cụ thê ở đây là cảc nhàvăn. Tuynhiên, cũng phải nói thêm rằng, việc cáctácgiả đã sửdụngnhữngbiểu thức thể hiện người phụ nữ thông qua hàng hóa không có nghĩa đây là cách họ thực sự cảm nhận về phụ nữ. Cỏ thể họ đã sử dụng các biểu thức ẩn dụ trên đểcho thấy cách họ già định xâ hội nhận thức và nhìnnhận vềphụnừ như thế nào.
5. Kết luận
Trong ân dụ “Người phụ nữ là hàng hóa”, cơ chế ánh xạ được thực hiện từ miền nguồn “Hàng hóa” sang miềnđích “Người phụnữ”, từ đỏngười phụ nữ được gán chocác đặc điểm, tính chất của hàng hóa. Cơ chếnàytạora 4 ầndụ bậcdưới của ân dụ “Người phụ nữlà hàng hóa”. Việcphân tích mộtsốbiểu thức liên quan đếnẩndụnàyđược sử dụng trong các tác phẩm văn học cho thấy cáinhìn thiên lệch của xã hộiđốivới người phụ nữ khi coi họlà những hàng hóa thuộcsở hữu của đànông,bị đànôngchi phổivà sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[I] Hữu Đạt, Phong cách học và các phong cách chức nâng tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2000.
[2] Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005.
[3] D. Lee, Dần luận ngôn ngữ học trì nhận, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hoàng An dịch, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2016.
[4] Hoàng Fhê (Chù biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 20 ỉ 0.
[5] Vũ Trọng Phụng, Làm đĩ, Nxb. Văn học, Hả Nội, 2005.
[6] Lý Toàn Thắng, Ngồn ngừ học tri nhận: Những nội dung quan yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
[7] Nguyễn Văn Tu (Chù biên), Khải luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, I960.
[8] Kốvecses z., Metaphor in Culture: Universality and Variation, Cambridge University Press, Cambridge, 2005.
[9] Kovccses z., Metaphor: A practical introduction, Oxford University Press, Oxford, 2010.
[10] Lakoff G. & Johnson M., Metaphors we live by. The University of Chicago Press, Chicago and London, 1980.
[II] http://downloadsach.com. [12] http.7/www.sachvui.com.