• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ"

Copied!
10
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Tập 170, số 10, 2017

Tập 170, Số 10, 2017

(2)

T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ

Môc lôc Trang

Lưu Bình Dương, Nguyễn Văn Tiến - “Thiêng hóa” - yếu tố cơ bản cấu thành luật tục 3 Nguyễn Thị Mai Chanh, Bùi Thuỳ Linh - Phương thức huyền thoại hoá nhân vật trong Tửu quốc của Mạc Ngôn 9 Phạm Văn Cường - Nghiên cứu sự thích ứng với phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ của sinh viên dân

tộc thiểu số miền núi phía Bắc 15

Bùi Linh Phượng, Mai Thị Ngọc Hà - Phân tích, so sánh nội dung toán học trong chương trình đào tạo ngành

nông lâm nghiệp của một số trường đại học trên thế giới 19 Trịnh Thị Kim Thoa - Thực trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh tại

Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông – Đại học Thái Nguyên 25 Thân Thị Thu Ngân - Kỷ niệm 90 năm ra đời tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927 – 2017) - Ý nghĩa lý luận

và thực tiễn việc nghiên cứu tác phẩm “Đường Kách mệnh” của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh 31 Ma Thị Ngần - Một số đặc điểm cần lưu ý khi xây dựng chương trình môn học giáo dục thể chất nhằm nâng

cao kết quả học tập của sinh viên 35

Dương Thị Hương Lan, Nguyễn Vũ Phong Vân, Nguyễn Hiền Lương - Ứng dụng các hoạt động học tập trải nghiệm vào trong một giờ học nói tiếng Anh ở Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh – Đại học

Thái Nguyên 41

Lê Ngọc Nương, Nguyễn Thị Hà, Nguyễn Hải Khanh - Xây dựng khung lý thuyết về sự hài lòng trong công việc

của người lao động tại Công ty Cổ phần Quản lý và Xây dựng giao thông Thái Nguyên 47 Đoàn Quang Thiệu - Xây dựng hệ thống nghiệp vụ kinh tế phát sinh và bộ chứng từ kế toán mẫu để thực hành

cho sinh viên 53

Đỗ Thị Hà Phương, Đoàn Thị Mai, Chu Thị Hà, Nguyễn Thị Giang - Các yếu tố ảnh hưởng tới mức sẵn lòng

chi trả của người tiêu dùng đối với thực phẩm an toàn trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên 59 Nguyễn Thị Thanh Thủy - Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần FPT 65 Vũ Hồng Vân, Lương Thị Mai Uyên - Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế 71 Nguyễn Thị Linh Trang, Bùi Thị Ngân - Phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng

Thương mại Cổ phần quân đội – chi nhánh Thái Nguyên 77

Nguyễn Thị Lan Anh, Nông Thị Vân Thảo - Xây dựng hệ thống hỗ trợ quản lý chấm điểm cán bộ tại sở giao

dịch Vietcombank 85

Nguyễn Thu Nga, Kiều Thị Khánh, Hoàng Văn Dư - Hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng khi tính đến rủi

ro tín dụng 91

Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Bích Hồng - Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bắc Giang theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020, tầm nhìn 2030 97

Đàm Thị Phương Thảo, Nguyễn Tiến Mạnh - Đánh giá ảnh hưởng của một số nhân tố đến hiệu quả hoạt động

kinh doanh của các công ty bất động sản niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam 103 Phạm Thị Huyền - Án lệ và việc áp dụng án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam 109 Dương Thị Huyền - Mối quan hệ của thương điếm Anh ở Hirado (1613- 1623) với chính quyền Nhật Bản 115 Trần Nguyễn Sĩ Nguyên - Dân vận khéo là vấn đề cốt lõi trong nghệ thuật hoạt động chính trị Hồ Chí Minh 121

Đinh Thị Giang - Quan điểm của J.Locke về nguồn gốc và bản chất của nhà nước 127

Journal of Science and Technology

170 (10)

N¨m

2017

(3)

Trần Bảo Ngọc, Lê Thị Lựu, Bùi Thanh Thủy và cộng sự - Nhận thức của sinh viên Dược về môi trường giáo

dục tại trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên bằng bảng hỏi DREEM 131 Lương Ngọc Huyên - Thực trạng việc vận dụng toán học vào thực tiễn trong dạy học và kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập môn Toán của học sinh lớp 10 ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tuyên

Quang, nguyên nhân và giải pháp 137

Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Xuân Trường, Hoàng Thị Giang - Tiếp cận địa lý trong nghiên cứu quan hệ giữa phát triển kinh tế gắn với đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực các xã vùng cao biên giới (ví dụ tại tỉnh

Hà Giang) 143

Đỗ Thị Quyên, Nguyễn Thị Kim Tuyến - Nghiên cứu các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến hành vi mua trực tuyến của

người tiêu dùng tỉnh Thái Nguyên 149

Phương Hữu Khiêm, Nguyễn Đắc Dũng, Nguyễn Ngọc Lý - Phát triển thị trường sản phẩm đầu ra cho rừng

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh- Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội 161 Nguyễn Thị Vân Anh - Thu hút đầu tư – động lực và cơ sở phát triển kinh tế bền vững tỉnh Thái Nguyên 167 Văn Thị Quỳnh Hoa, Nguyễn Lan Hương - Hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giảng

dạy tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên 173 Mai Văn Cẩn - Sử dụng hình tượng nhân vật Thạch Sanh trong một số hoạt động dạy thực hành tiếng Anh bậc

trung học phổ thông 179

Đỗ Thị Hương Liên - Bàn thêm về cuộc khởi nghĩa của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh) và mối liên hệ với các

cuộc khởi nghĩa đương thời 185

Phạm Văn Quang, Nguyễn Huy Ánh - Giải pháp tăng cường tính tích cực, chủ động trong học tập của sinh

viên khoa Thể dục thể thao trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên 191

Nguyễn Thị Minh Thu, Bùi Thị Ngọc Anh - Ca dao, dân ca làng chài Vịnh Hạ Long - nét văn hóa mang đậm

yếu tố biển 197

Đặng Anh Tuấn, Ngô Thị Minh Hằng, Phạm Thị Trung Hà - Sự hồi phục của thị trường bất động sản và rủi

ro kinh doanh của các công ty bất động sản 203

Lê Văn Thơ, Vũ Anh Tuấn - Đánh giá tình hình sử dụng đất tại các khu đô thị trên địa bàn thành phố Việt Trì,

tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2016 209

(4)

Lưu Bình Dương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 3-7

3

“THIÊNG HÓA” - YẾU TỐ CƠ BẢN CẤU THÀNH LUẬT TỤC

Lưu Bình Dương, Nguyễn Văn Tiến* Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Nghiên cứu này tập trung vào sự lý giải “tính thiêng” - một nhân tố làm cho luật tục của các dân tộc thiểu số có tính hiệu lực buộc các thành viên trong cộng đồng tự nguyện tuân theo. Luật tục của các dân tộc thiểu số được xây dựng, thi hành, đảm bảo có hiệu lực dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Một trong những yếu tố quan trọng để các cá nhân trong cộng đồng tuân theo những hình phạt, hay sự răn đe của luật tục chính là sự thiêng liêng. “Thiêng hóa” là một trong các đặc điểm của luật tục ở Việt Nam, là sự phản ánh niềm tin mãnh liệt, tâm linh của cộng đồng vào các thế lực siêu nhiên (thần linh) được thể chế hóa thành các quy tắc hành vi quy định trong luật tục của họ, buộc các chủ thể có liên quan phải tự giác chấp hành vô điều kiện, nếu vi phạm sẽ phải gánh chịu theo các quy ước cộng đồng đề ra.

Từ khóa: Luật tục, thiêng hóa, không gian thiêng, quyền lực thiêng, phong tục

ĐẶT VẤN ĐỀ *

Luật tục là hiện tượng xã hội đặc thù của các cộng đồng dân tộc thiểu số Việt Nam để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội mà cộng đồng đó tồn tại. Bằng các nghiên cứu khoa học các nhà luật học đã minh chứng luật tục tồn tại và hình thành trước pháp luật của nhà nước và tồn tại trong cả xã hội có nhà nước, thậm chí nhiều cộng đồng hiện nay vẫn đang dùng luật tục song hành cùng luật pháp để điều chỉnh các quan hệ xã hội... Dưới góc độ luật học, theo PGS.TS Nguyễn Thị Việt Hương, Luật tục là những chuẩn mực xã hội, giới hạn hành vi ứng xử của mỗi cá nhân và cả cộng đồng sao cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Luật tục bao hàm và cụ thể hóa các chuẩn mực về đạo đức, pháp lý xã hội, tạo nên các giá trị văn hóa, tinh thần, truyền thống của dân tộc, không ngừng được củng cố trong tiến trình phát triển lịch sử [2].

Tiếp cận luật tục dưới góc độ luật học đa số các nhà nghiên cứu đánh giá luật tục có năm đặc trưng sau đây: (i) Luật tục là những chuẩn mực xã hội, giới hạn hành vi ứng xử của mỗi cá nhân và cả cộng đồng, mang tính ý chí và nguyện vọng của toàn thể cộng đồng, điều hòa các quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với gia đình - dòng họ,

*Tel: 0987066586, Email: tiennv@tnus.edu.vn

giữa cá nhân với buôn làng, với xã hội, với tự nhiên và cả với các lực lượng siêu nhiên...[3].

(ii) Luật tục chứa đựng nhiều chuẩn mực xã hội, thể hóa các chuẩn mực về: đạo đức, công lý tự nhiên, về văn hóa, tín ngưỡng... tạo nên các giá trị văn hóa, tinh thần, truyền thống của cộng đồng cư dân, liên tục được củng cố và phát triển trong lịch sử. (iii) Luật tục giống các quy phạm xã hội khác có tính phổ biến, tính bắt buộc nhưng khác biệt ở tính cưỡng chế, thưởng phạt. Cưỡng chế là thuộc tính mà quy phạm đạo đức, tôn giáo, tập tục không có; cưỡng chế trong luật tục mang bản chất xã hội, có tính hiệu quả cao và được tự nguyện thi hành [5]. (iv) Luật tục có tính hệ thống khái quát hóa nhóm quan hệ điều chỉnh cao hơn so với các quy phạm xã hội khác. Cùng với thời gian luật tục đã được tập hợp hóa, pháp điển hóa cộng đồng thành Bộ luật: nhiều dân tộc đã có hình thức pháp điển hóa cộng đồng cao hình thành bộ luật tục như Bộ luật tục Chăm [1]. (v) Luật tục có một sự công nhận đương nhiên các quy tắc, lễ nghi ứng xử với thần thánh; có một sự giải thích các nghi lễ thần bí tạo nên một bộ phận không tách được của quá trình thi hành. Mọi hành vi vi phạm luật tục đều có thể bị coi là hành vi chống lại một khía cạnh nào đó của thần thánh [1]. Đặc trưng này theo chúng tôi gọi đó là đặc trưng “thiêng hóa” của luật tục.

(5)

Lưu Bình Dương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 3-7

4

Trong năm đặc trưng trên đây, đặc trưng thứ năm “thiêng hóa” có vị trí đặc biệt, là đặc trưng cơ bản nhất trong các đặc trưng của luật tục, tạo nên một cơ chế xã hội đặc thù để đưa luật tục vào đời sống cộng đồng, nổi trội hơn các quy phạm xã hội cùng tồn tại. Cơ chế đặc thù của luật tục là đặc trưng “thiêng hóa”;

vậy thiêng hóa là gì và tác động như thế nào để luật tục phát triển là nội dung bài viết này trao đổi.

CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH, KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA "THIÊNG HÓA"

TRONG LUẬT TỤC

Luật tục là một loại quy phạm xã hội (quy tắc, quy định điều chỉnh hành vi của con người) nhưng quy phạm luật tục có tính vượt trội hơn các quy phạm xã hội kể trên trong điều chỉnh các quan hệ xã hội (của cộng đồng các dân tộc thiểu số) ở chính đặc trưng thiêng hóa.

Nghiên cứu luật tục của các dân tộc thiểu số, chúng tôi cho rằng đặc trưng thiêng hóa được hình thành bằng con đường sau đây:

Thứ nhất, đặc trưng thiêng hóa của Người Việt (hiểu là cả cộng đồng dân tộc Việt Nam) có từ rất lâu, xuất phát từ sự hạn chế trong nhận thức và giải thích tự nhiên của người Việt cổ với các sự kiện thiên nhiên như mưa nắng, giông lốc, sấm sét, hạn hán, cháy rừng, lở đất hoặc thậm chí các rủi ro ngẫu nhiên xảy ra. Nội dung này hoàn toàn khách quan do điều kiện sống và nhận thức lúc đó chi phối.

Người Việt cổ do hạn chế về khả năng nhận thức thế giới khách quan, cùng với tín ngưỡng đa thần họ tìm cách tôn vinh, thần thánh hóa gắn với mỗi sự kiện một vị thần nào đó để tôn thờ, an ủi, cầu cạnh sự che chở. Tín ngưỡng này được luật hóa trong luật tục là một tập hợp những điều luật liên quan đến niềm tin và tính thực thi của cả cộng đồng. Nó được chấp nhận một cách đương nhiên và những người thi hành cũng như những người phải tuân thủ đã không đặt ra những nghi ngờ về nó. Nó tồn tại dai dẳng từ đời này sang đời khác, là sự tiếp diễn, sự kế cận của các thế hệ, một sự hợp thành bao gồm cả người sống, người chết

và thế giới thần thánh. Luật tục, do đó được nhận thức và thừa nhận như một giá trị sở hữu và thừa kế của một chuỗi các thế hệ. Trong luật tục có một sự giải thích các nghi lễ thần bí tạo nên một bộ phận không tách được của quá trình thi hành. Mọi hành vi vi phạm luật tục đều có thể bị coi là hành vi chống lại một khía cạnh nào đó của thần thánh [1].

Thứ hai, thiêng hóa bắt nguồn từ sự giải thích những vấn đề về lợi ích chung của cộng đồng để hướng đến điều chỉnh cộng đồng; Người Việt không đi theo hướng nhận thức để đối phó với tự nhiên, chế ngự, làm chủ nó như các dân tộc ở phương Tây. Họ tìm cách thích ứng với tự nhiên, lựa chiều mà sống theo lối phải chăng, hài hòa, tôn trọng tự nhiên. Họ vừa thành kính biết ơn, lại vừa mong muốn một quan hệ hài hòa, nương tựa lẫn nhau giữa con người và tự nhiên, một thiên nhiên thấm đẫm công sức của họ. Họ cầu nguyện trời đất, thần linh phù hộ con người, để rồi con người cũng che chở, nuôi dưỡng thần linh của mình và ngược lại cũng xác định con người không phải ai khác đang góp phần giữ gìn các yếu tố tự nhiên để phục vụ con người. Để làm được điều này tốt nhất là luật hóa nó vào các hành vi xử sự của cộng đồng qua luật tục. Nội dung này mang tính chủ quan của cộng đồng khi làm ra luật tục, được sự đồng thuận cao.

Thứ ba, từ quan niệm nêu trên, các quy ước được ghi vào luật tục. Đến lượt nó, luật tục trở thành quy ước xử sự của cộng đồng với thần linh, vi phạm luật tục là vi phạm quy ước con người với thần linh và phải bị trừng phạt.

Trừng phạt càng nghiêm khắc mới mong thần linh xá tội, trừng phạt nghiêm khắc mới mong mọi người khiếp sợ coi đó là bài học răn đe kẻ khác. Tuy nhiên, tính nghiêm khắc trong luật tục không phải là nâng cao các chế tài đến mức thảm khốc (trừ một số loại luật tục đặc thù) mà cơ bản là các chế tài hướng đến ý thức cộng đồng khôi phục lòng tin. Đây chính là tính nhân văn rất cao trong luật tục của cộng đồng dân tộc thiểu số người Việt.

(6)

Lưu Bình Dương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 3-7

5 Thứ tư, thiêng hóa trong luật tục được thể

hiện trong quy định nghi lễ thực hiện hay còn gọi thủ tục tố tụng: Đó là khi có cá nhân vi phạm luật tục – vi phạm giao ước, cam kết của con người với thần linh thì không phải chỉ người đó chịu trách nhiệm mà còn truy cứu trách nhiệm tập thể cộng đồng như cả gia đình, dòng họ… đồng thời phải đứng ra xin lỗi, cầu xin tha thứ của thần linh qua nghi lễ cộng đồng với sự chứng kiến của cả cộng đồng, tế lễ cầu xin thần linh tha thứ bằng sự hiện diện trung gian của thầy mo, thầy tào…

mục đích là nối lại sợi dây linh thiêng đã bị đứt giữa con người và thần linh khi hành vi vi phạm luật tục gây ra.

Như vậy có thể hiểu “Thiêng hóa” là một trong các đặc điểm của luật tục ở Việt Nam, là sự phản ánh niềm tin mãnh liệt, tâm linh của cộng đồng vào các thế lực siêu nhiên (thần linh) được thể chế hóa thành các quy tắc hành vi quy định trong luật tục của họ, buộc các chủ thể có liên quan phải tự giác chấp hành vô điều kiện, nếu vi phạm sẽ phải gánh chịu theo các quy ước cộng đồng đề ra.

Yếu tố thần linh trong luật tục tạo ra “phép thiêng” hay sự “thiêng hóa” các quy phạm xã hội – Không có và không tồn tại sự thiêng hóa trong luật tục thì luật tục không có cơ chế thực hiện và do đó sẽ không tồn tại. Phân tích các yếu tố cấu thành đặc trưng thiêng hóa trong luật tục, chúng ta rút ra các đặc điểm sau đây so với yếu tố thần linh của các quy phạm tôn giáo, quy phạm tập quán khác:

+ Thiêng hóa trong luật tục được quy định thành hành vi ứng xử bắt buộc của chủ thể trong cộng đồng, nhất là mối quan hệ với thần linh. Đòi hỏi của luật tục là điều chỉnh bằng hành vi cụ thể chứ không điều chỉnh suy nghĩ, ý thức của chủ thể như quy phạm tôn giáo (khuyên răn con người không được nghĩ ác, hướng đến tâm thiện trước tiên rồi đến hành vi thiện).

+ Thiêng hóa trong luật tục tạo ra sự tự giác trong việc chấp hành các quy định mà luật tục ghi nhận. Người vi phạm trước hết lo sợ hậu quả trừng phạt từ cộng đồng mang đến hơn là

lo sợ thần linh trừng phạt. Đặc điểm này khác biệt với quy phạm tôn giáo ở chỗ người vi phạm quy định tôn giáo chỉ lo sợ chính thần linh trừng phạt; khác biệt với quy phạm tập quán ở chỗ người vi phạm quy phạm tập quán lo sợ sự khác biệt trong nhìn nhận của cộng đồng với họ như ma chay, cưới hỏi, làm nhà...

hoặc lo sợ hậu quả thiên tai tự nhiên sẽ đến với họ sau này nếu không làm đúng tập lệ.

+ Thiêng hóa trong luật tục tạo ra cơ chế thi hành luật tục đặc thù, là sự tích hợp của cả hai đặc trưng trên đây trong hình thành cơ chế áp dụng.

CƠ CHẾ THI HÀNH ĐẶC THÙ CỦA ĐẶC TRƯNG "THIÊNG HÓA" TRONG LUẬT TỤC Cơ chế điều chỉnh của pháp luật bằng phương thức thông qua hệ thống của các cơ quan nhà nước tác động vào đối tượng điều chỉnh chuyển hóa hành vi của họ để họ lựa chọn hành vi xử sự theo đòi hỏi của pháp luật; khi nào chủ thể bị tác động có hành vi trái pháp luật thì sẽ bị áp dụng chế tài mang tính cưỡng bức bởi quyền lực của nhà nước buộc phải tuân thủ. Luật tục được hình thành từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp, nhu cầu quản lý cũng như tính chất của hoạt động quản lý còn khá đơn giản, nên hình thành cơ chế điều chỉnh tương ứng với cơ sở xã hội đã sinh ra nó bằng nhiều cách thức như: giáo dục, răn đe, xử phạt… Cơ chế này đã tác động đến nhận thức và hành vi của các thành viên trong cộng đồng để tự giác thực hiện mà không có sự tác động mang tính cưỡng bức từ phía nhà nước. Điều này thể hiện rõ qua ba yếu tố sau:

+ Yếu tố giáo dục của luật tục là việc luật tục ghi nhận sâu sắc tính nhân văn đạo đức truyền thống của cộng đồng về cái thiện, cái tốt từ đó xây dựng thành các tình huống, chỉ dẫn lời khuyên như kính trọng ông, bà, bố mẹ, tình yêu thương vợ chồng... Nội dung của giáo dục mang tính chất khuyên nhủ, phải trái, chỉ ra cái “nên” và “không nên làm” đánh vào ý thức của mỗi người, đặt họ lựa chọn trong cộng đồng để lựa chọn từ đó chuyển hóa hành vi theo đòi hỏi chung. Tính chất giáo dục không có các chế tài nghiêm khắc nào, mà nó

(7)

Lưu Bình Dương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 3-7

6

nhẹ nhàng sâu sắc; nó là biểu hiện của danh dự, sự tự trọng cần phải có để họ làm theo – làm trái (chống lại) cái ông bà, cha mẹ khuyên nhủ là bất hiếu, bất nhân sẽ bị cộng đồng lên án.

+ Yếu tố răn đe của luật tục dựa trên triết lý nhân quả tự nhiên, nỗi lo sợ với các thế lực siêu nhiên, sợ bị siêu nhiên (thần thánh, ma quỷ...) trả thù khi có hành vi được coi xúc phạm thần thánh mà con người gặp phải do ngẫu nhiên trùng hợp, kết hợp với yếu tố thần linh làm cho Luật tục trở nên linh thiêng. Mặt khác xuất phát từ sự nhận thức trực quan cảm tính của cộng đồng khi trình độ còn hạn chế, con người nhỏ bé trước tự nhiên họ phải co cụm lại, họ giải thích theo hướng thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên như sấm, chớp, lụt lội, mất mùa, dịch bệnh... kết hợp với tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy đã vô hình chung “thiêng hóa” các hiện tượng, sự vật.

Coi mỗi sự vật hiện tượng đều có linh hồn, đều do một vị thần thánh nào đó cai quản: Đất có thổ công, sông có hà bá, rừng có thần rừng, biển có vua biển...

+ Yếu tố trừng phạt của luật tục: cũng việc lo sợ bị trừng phạt của tự nhiên như đã nêu trên (được thần thánh hóa) có thể gây ra với cả cộng đồng mà cộng động phải gánh chịu từ hành vi của cá nhân nào đó, cộng đồng thiết lập ra chế độ xử phạt, hình thức xử phạt như:

phạt vạ bằng trâu bò để cúng tế thần linh, lạc hậu hơn như bị coi một người bị “ma quỷ nhập” phải mang người đó đi tế lễ, thậm chí giết chết...để cầu an cho cộng đồng đã tạo cho luật tục tính cưỡng chế cộng đồng ghê gớm.

+ Phương thức tố tụng của luật tục: yếu tố răn đe trong hệ thống của luật tục còn thể hiện đậm nét trong quy trình xét xử (tố tụng vụ án); đó là việc cộng đồng xét xử hành vi vi phạm theo nghi lễ tôn giáo, có sự chứng kiến của thần linh và cộng đồng. Bằng các nghi lễ có tính chất tôn giáo “kẻ vi phạm” phải hối lỗi về việc “hắn đã gây ra”, “hắn phải đền tội hoặc bị phạt vạ”. Người bị xét xử đứng về giác độ tinh thần bị tổn hại nặng nề, ảnh hưởng đến uy tín của dòng họ, gia tộc (như:

trường hợp phạt vạ gái chửa hoang không chồng; với hành vi hủ hóa, thông dâm, chặt

cây rừng thiêng, săn bắn thú cấm…). Vì thế, hạn chế vi phạm phát sinh, ý thức được nâng lên. Xét về góc độ kinh tế nhiều vụ án bị quy kết làm cho người vi phạm bị khuynh gia bại sản, gia tộc bị vạ lây nên có tính răn đe sâu sắc, cơ chế tự giáo dục nội bộ được thiết lập.

Tính chất trừng phạt của luật tục ở một số dân tộc rất nghiêm khắc đó là hình phạt “giết người đền mạng” trong luật tục Thái, Mường.

Hình phạt đuổi khỏi làng vì bị “ma lai” của người Ê đê, Jrai…. Cũng tạo nên các biện pháp chế tài đặc biệt làm cho luật tục có giá trị vượt trội hơn các quy phạm xã hội khác đương thời.

Tính thiêng hóa được thể hiện ở không gian thiêng diễn ra khi xử phạt một cá nhân nào đó trong cộng đồng tộc người. Trên thực tế quyền lực xã hội thường được gắn liền với một không gian mang tính quyền lực tương tự. Ở đây, trong đời sống làng bản các vùng dân tộc cũng có những không gian thiêng như:

ngôi nhà dài của người Êđê, nhà Rông, bãi đất trước nhà lớn, khu rừng, con suối thiêng...Tất cả những khu vực thiêng này được quy định trong các luật tục không ai được xâm phạm hay có những lời lẽ phỉ báng, bởi nơi đây có sự ngự trị hay sự chứng giám thường xuyên của các đấng thần linh của bản làng. Đồng thời, những nơi này được chọn làm khu vực diễn ra những hoạt động chung của cả cộng đồng như các lễ hội lớn trong năm, các nghi lễ tôn giáo cho cả tộc người. Do vậy, khi tiến hành phân xử những cá nhân phạm tội trong làng bản cũng thường được tiến hành ở những nơi không gian thiêng liêng này.

Tính thiêng hóa thể hiện trong hành động, mức độ và hình thức xử phạt. Có những hành động của cá nhân nào đó bị khép vào tội vi phạm vào những nơi của thần thánh như: chặt phá rừng thiêng, trộm cắp tài sản chung, các công cụ nghi lễ... những điều này không chỉ làm tổn hại đến một vài cá nhân mà làm nguy hại đến đời sống của cả một cộng đồng. Những hành động này sẽ bị những thần thánh trừng phạt gây bão lũ, thiên tai, dịch bệnh, mất mùa... vì thế, hình thức xử phạt cũng sẽ nặng hơn, và làm cả nghi lễ mang tính chất xin lỗi đến các thần thánh bảo trợ cho cả bản làng.

(8)

Lưu Bình Dương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 3-7

7 Tính thiêng hóa còn được thực thi bởi hệ

thống những thầy Tào, Mo, Then, Pựt - họ là những người có uy tín trong đời sống tâm linh, là cầu nối giữa thế giới “phàm” và

“thiêng”. Ngoài vai trò và quyền lực chính thuộc về những già làng, trưởng bản trong quá trình xử phạt, các thầy cúng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc mang lại tính uy nghiêm của luật tục. Họ thực thi nhiệm vụ giao tiếp với những thần linh để cầu thỉnh thần linh cùng chứng giám quá trình xử phạt và để các vị thần nhận những lễ vật của những cá nhân vi phạm sau khi bị xử phạt.

Đây là một trong những công việc được xuất phát từ thời kỳ nguyên thủy còn tồn tại trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số.

KẾT LUẬN

Thiêng hóa là đặc điểm đặc thù và rất quan trọng tạo nên Luật tục, nói cách khác nếu mất đi yếu tố “thiêng hóa” thì Luật tục khó đi vào đời sống; các yếu tố cấu thành sự thiêng hóa trong Luật tục ngày nay đang bị phai nhạt bởi vậy có nhiều Luật tục đã không còn tồn tại.

Mặt khác pháp luật của nhà nước ra đời với thuộc tính bắt buộc chung và tính cưỡng chế có sức nặng hơn nhiều Luật tục cũng làm cho sức sống giảm đi; tuy nhiên, tiếp thu và chọn lọc tinh hoa của Luật tục để tiếp tục phát huy điều chỉnh các quan hệ xã hội trong môi

trường mà pháp luật không phủ hết được các quan hệ xã hội của cộng động dân tộc thiểu số vẫn là rất cần thiết. Ngày nay yếu tố thiêng hóa không còn được giải thích như các nội dung nguyên thủy cấu thành nó mà cần coi đó là yếu tố văn hóa, yếu tố đạo đức để nâng lên trong xử sự hành vi cộng đồng – đấy cũng chính là góp phần bảo tồn phát huy tính thiêng hóa của Luật tục mà các nhà làm luật hiện nay phải tính đến trong các quy định pháp luật có phạm vi tác động đến các nội dung mà Luật tục có truyền thống điều chỉnh như bảo vệ rừng, tài nguyên rừng, sông suối, nguồn lợi thủy, hải sản...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Hiền (1997), “Một số quan điểm và phương pháp tiếp cận luật tục”, Kỷ yếu hội thảo chuyên đề về luật tục, Bộ Tư pháp - Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Việt Hương (2000), “Giá trị của luật tục từ góc nhìn pháp lý”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4, tr.22 – 29.

3. Phan Đăng Nhật (2007), “Luật tục – một giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 1(18), tr.36-42.

4. Phan Đăng Nhật (2007), Luật tục với đời sống (tập 1), Nxb Tư pháp, tr.33 – 37.

5. Phan Đăng Nhật, Nguyễn Thế Sang (2012), Luật tục Chăm và Luật tục Raglai, Nxb Văn hóa Dân tộc, tr.238 – 270.

SUMMARY

"SACRED" FUNDAMENTAL STRUCTURE OF CUSTOMARY LAW

Luu Binh Duong, Nguyen Van Tien*

University of Science – TNU

This study focuses on the interpretation of "sacredness" - a factor that makes the customary law of ethnic minorities customary laws of the ethnic minorities enforceable. Therefore, it is compulsory for community members to voluntarily obey. In Vietnam, the customary laws of the ethnic minorities is built, enforced and effected based on various factors. One of the most important factors for individuals in the community to follow is the punishment. The deterrence of customary law is sacredness. “Sacrifice” is one of the characteristics of customary laws in Vietnam. It reflects a strong faith, spirituality of the community in the supernatural (Divine) and institutionalized into the rules and behaviors defined in their customary laws. Forcing related parties to voluntarily abide by unconditional. If anyone violates, they will have to suffer the conventions set by the community.

Keywords: customary, sacred, sacred space, divine power, customs

Ngày nhận bài: 26/6/2017; Ngày phản biện: 10/7/2017; Ngày duyệt đăng: 28/9/2017

*Tel: 0987066586, Email: tiennv@tnus.edu.vn

(9)

soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS

Content Page

Luu Binh Duong, Nguyen Van Tien - "Sacred" fundamental structure of customary law 3 Nguyen Thi Mai Chanh, Bui Thuy Linh - The characters of mythology in “The Republic of Wine” by

Guan Moye 9

Pham Van Cuong - Studying adaptation to the training menthod of the credit for northern mountainous ethnic

minority students 15

Bui Linh Phuong, Mai Thi Ngoc Ha - Analysis and comparison of mathematical content in the forestry

agricultural sector training program of a number of universities in the world 19 Trinh Thi Kim Thoa - The situation and the solutions to improve the quality of teaching and learning Ho Chi

Minh ideology at University of Information and Communication Technology – TNU 25 Than Thi Thu Ngan - The 90th anniversary of the publication of "Duong Kach menh" book (1927 – 2017)

Theoretical and practical meaning of the work “Duong Kach menh” of the leader Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh 31 Ma Thi Ngan - Some features should be regarded when building a physical education program to increase the

learning result of students 35

Duong Thi Huong Lan, Nguyen Vu Phong Van, Nguyen Hien Luong - Applied experiential learning activities in an English speaking lesson of University of Economics and Business Administration - Thai

Nguyen University 41

Le Ngoc Nuong, Nguyen Thi Ha, Nguyen Hai Khanh - Building the theory of integrity of satisfaction in the

work of laborers at Thai Nguyen Traffic Trading and Management Joint Stock Company 47 Doan Quang Thieu - Establishing the standard sample system of occurred economic operations and accounting

vouchers for students' practice 53 Do Thi Ha Phuong, Doan Thi Mai, Chu Thi Ha, Nguyen Thi Giang - Factors influencing willingness to pay

for safety food in Thai Nguyen city, Thai Nguyen province 59

Nguyen Thi Thanh Thuy - Analysis of FPT Joint Stock Company 's financial situation 65 Vu Hong Van, Luong Thi Mai Uyen - Strengthen competitive capability of mechanical industry in the process

of international economic integration 71

Nguyen Thi Linh Trang, Bui Thi Ngan - The development of non - cash payment service at military JSC Bank

– Thai Nguyen branch 77

Nguyen Thi Lan Anh, Nong Thi Van Thao - Building the system of management support in scoring staffs at

Vietcombank transaction deparment 85

Nguyen Thu Nga, Kieu Thi Khanh, Hoang Van Du - Investigation of commercial bank’s efficiency with

credit risk incorporated 91

Nguyen Thi Van, Nguyen Bich Hong - Solutions to promote the economic structural transformation in Bac

Giang province towards industrialization and modernization to 2020 with a vision to 2030 97 Dam Thi Phuong Thao, Nguyen Tien Manh - Estimating the effect of some factors on operational efficiency

of real estate companies posted up in Viet Nam stock market 103

Pham Thi Huyen - Precedent and the application of precedent in Vietnam law system 109 Duong Thi Huyen - The relationship of the English's factory in Hirado (1613- 1623) with Japan government 115 Tran Nguyen Si Nguyen - Subtle mass mobilization is core of political activism art of Ho Chi Minh 121

Journal of Science and Technology

170 (10)

N¨m

2017

(10)

Dinh Thi Giang - J. Locke’s thoughts of the origin and characteristics of civil society 127 Tran Bao Ngoc, Le Thi Luu, Bui Thanh Thuy et al - The pharmaceutical students’ perception of educational

environment at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy by DREEM questionnare 131 Luong Ngoc Huyen - A current issue of applying mathemarics into teaching practice and assessing,

evaluating the result of learning mathemarics of 10th grade students in high schools in Tuyen Quang city,

causes and solutions 137 Nguyen Thi Hong, Nguyen Xuan Truong, Hoang Thi Giang - Geographical approaches in research of the

relationship between economic development and ensuring national defense and security for border communes,

Ha Giang province 143

Do Thi Quyen, Nguyen Thi Kim Tuyen - Study psychological factors which affect to the buy online behavior of

consumers in Thai Nguyen province 149

Phuong Huu Khiem, Nguyen Dac Dung, Nguyen Ngoc Ly - Developing the output product market for forest

plantations followed sustainable trend in Dong Hy district, Thai Nguyen province 155 Phan Thi Thanh Huyen, Ha Xuan Linh - Study on residental land price in Soc Son district, Ha Noi city 161 Nguyen Thi Van Anh - Attracting investment – motivation and foundation to develop sustainable economic in

Thai Nguyen province 167

Van Thi Quynh Hoa, Nguyen Lan Huong - The effects of information technology in teaching English to first

year students at University of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University 173 Mai Van Can - Using the character of Thach Sanh in teaching English practice at secondary school 179 Do Thi Huong Lien - Discussion on revolution of Hoang Dinh Kinh (Cai Kinh) and relationship with

contemporary revolutions 185

Pham Van Quang, Nguyen Huy Anh - Solutions to enhance the activeness of study of students physical

education and sport faculty at Thai Nguyen University of Education 191

Nguyen Thi Minh Thu, Bui Thi Ngoc Anh - Folk songs in fishing village of Ha Long Bay - characterristics of

sea culture 197

Dang Anh Tuan, Ngo Thi Minh Hang, Pham Thi Trung Ha - Recovering of real estate market and business

risk of real estate companies 203

Le Van Tho, Vu Anh Tuan - Assessment land use in urban areas in Viet Tri city – Phu Tho province from

2011 to 2016 209

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc

trồng sản xuất theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên 155 Phan Thị Thanh Huyền, Hà Xuân Linh - Nghiên cứu giá đất ở trên địa bàn huyện Sóc