• Không có kết quả nào được tìm thấy

giao dịch của công ty chứng khoán, nhà đầu tư nước ngoài và biến động chỉ số VN-Index

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "giao dịch của công ty chứng khoán, nhà đầu tư nước ngoài và biến động chỉ số VN-Index"

Copied!
10
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

giao dịch của công ty chứng khoán, nhà đầu tư nước ngoài và biến động chỉ số VN-Index

Dương Ngân Hà

Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 19/02/2021 Ngày nhận bản sửa: 11/03/2021 Ngày duyệt đăng: 23/03/2021

Tóm tắt: Bài nghiên cứu nhằm mục đích kiểm định mối quan hệ nhân quả trong hoạt động giao dịch của nhà đầu tư bao gồm công ty chứng khoán (CTCK) và nhà đầu tư nước ngoài tới thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Sử dụng chuỗi dữ liệu khối lượng giao dịch ròng của nhà đầu tư nước ngoài (KLGDR NN) và khối lượng giao dịch ròng trong hoạt động tự doanh (KLGDR TD) tại các CTCK tại Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 01/2015 đến 9/2020, và chuỗi chỉ số VN-Index trong cùng thời điểm. Tác giả thực hiện kiểm định Granger và mô hình tự hồi quy VAR để đánh giá mối quan hệ nhân quả cũng như xác định mức độ tác động của giao dịch tới chỉ số chứng khoán. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa chỉ số VN-Index và KLGDR NN và KLGDR TD của các CTCK. Cụ thể, chỉ số chứng khoán sẽ tác động lên hành

Testing Granger causal relationship between trading behavior of securities companies, foreign investors and returns of VN-Index

Abstract: This paper aims to investigate the causal relationship in investor’s trading behavior including securities companies and foreign investors in Vietnamese securities market. Using the daily data of foreign investor’s net trading volume (KLGDR NN), securities companies’ net trading volume (KLGDR TD) and VN-Index returns in the period from Jan, 2015 to Sep,2020. This study also uses Granger test and VAR model to evaluate causality as well as determine the impact of trading behavior on stock indexes. Results of this paper show that a two-way causal relationship are existed between the VN- Index and net trading volume of foreign investors and securities companies. Specifically, the stock index affects the trading behavior of investors for 3 days before trading, while the trading behavior only affects one day later. These relationships are positive effects and statistically significant at 5% with correlation coefficient is small.

Keywords: Granger test, securities company, foreign investors, VN-Index.

Duong, Ngan Ha Email: hadn@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam

(2)

vi giao dịch của nhà đầu tư trong liên tiếp 3 ngày liền trước, trong khi giao dịch của hai nhóm nhà đầu tư này chỉ tác động lên chỉ số chứng khoán 1 ngày sau đó. Kết quả mô hình hồi quy cho thấy tác động này là dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, mặc dù hệ số tương quan không lớn.

Từ khóa: Granger test, CTCK, nhà đầu tư nước ngoài, VN-Index.

1. Giới thiệu

Tháng 9/2020 là thời điểm ghi nhận sự phục hồi của TTCK Việt Nam với mức tăng 9,4% của VN-Index, thuộc nhóm các thị trường có mức độ tăng trưởng tốt nhất toàn cầu (StockQ, 10/2020). Khối lượng giao dịch bình quân hàng ngày được cải thiện đáng kể sau thời điểm bùng phát dịch Covid-19, khối lượng giao dịch bình quân trên Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK) TP. Hồ Chí Minh (HOSE) mỗi phiên đạt 252,5 triệu cổ phiếu, giá trị giao dịch trung bình đạt 3.950,2 tỷ đồng (số liệu trong 9 tháng đầu năm 2020). Trong đó, giao dịch cải thiện đáng kể vào tháng 6 và tháng 9, khi dịch bệnh đã được kiểm soát tốt tại Việt Nam (Hình 1).

Giao dịch được cải thiện cả về khối lượng và thanh khoản cho thấy tín hiệu tích cực

của thị trường. Tuy nhiên tâm lý lo lắng về những diễn biến bất thường của dịch bệnh khiến hoạt động giao dịch của các nhóm nhà đầu tư có sự do dự. 9 tháng đầu năm 2020, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài luôn duy trì ở trạng thái bán ròng mặc dù đã có sự cải thiện ở một số thời điểm nhưng không đáng kể (Hình 2). Trong số các nhà đầu tư tham gia thị trường, CTCK với nghiệp vụ tự doanh cũng đóng góp đáng kể trong hoạt động giao dịch. Khối lượng và giá trị giao dịch ròng bình quân của CTCK duy trì trạng thái bán ròng khi TTCK có những biến động bất thường và rủi ro trong suốt 9 tháng đầu năm 2020 (Hình 3).

Có thể thấy nhà đầu tư nước ngoài và CTCK mặc dù là hai chủ thể độc lập cùng tham gia thị trường, nhưng xét trên quan điểm nhà đầu tư, 2 nhóm này có sự tương đồng về tính chuyên nghiệp trong đầu tư cũng

Hình 1. Quy mô giao dịch trên HOSE trong 9 tháng đầu năm 2020 Nguồn: Finpro, đơn vị (KLGD- cổ phiếu, GTGT- triệu đồng)

(3)

như mức độ ảnh hưởng tới giao dịch của các nhóm nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường.

Nghiên cứu hoạt động giao dịch của CTCK và nhà đầu tư lên TTCK là cần thiết để điều chỉnh quyết định giao dịch của các nhóm nhà đầu tư còn lại cũng như điều tiết các quy định giao dịch phù hợp, hạn chế những tác động tiêu cực tới các chủ thể tham gia thị trường.

Để nghiên cứu về giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và CTCK, tác giả lựa chọn biến số bao gồm KLGDR (khối lượng mua- khối lượng bán) của hai nhóm nhà đầu tư đại diện trên HOSE để cho thấy quyết định giao dịch này sẽ ảnh hưởng tới biến động

chỉ số VN-Index như thế nào.

Mối quan hệ giữa khối lượng giao dịch và biến động của TTCK đã được nghiên cứu tại nhiều quốc gia trong thời gian qua.

Grinffin và cộng sự (2004) trong nghiên cứu của mình đã tìm thấy mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa thống kê giữa khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với biến động giá của TTCK các nước khu vực Châu Á và Nam Mỹ. Tuy nhiên, nghiên cứu của Inoue (2009) tại TTCK Ấn Độ lại không tìm thấy mối quan hệ giữa hai biến số này. Tại TTCK Việt Nam, Trương Đông Lộc và Đặng Thị Thùy Dương (2011) đã sử dụng kiểm định Granger nghiên cứu Hình 2. Quy mô giao dịch ròng của nhà đầu tư nước ngoài trên HOSE

trong 9 tháng đầu năm 2020

Nguồn: Finpro, đơn vị (KLGDR TD- cổ phiếu, GTGTR TD- triệu đồng)

Hình 3. Quy mô giao dịch ròng của các CTCK trên HOSE trong 9 tháng đầu năm 2020

Nguồn: Finpro, đơn vị (KLGDR NN- cổ phiếu, GTGTR NN- triệu đồng)

(4)

mối quan hệ giữa sự biến động của chỉ số thị trường và khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội trong giai đoạn từ 2006 đến 2009. Cùng phương pháp nghiên cứu này Trương Đông Lộc và Mai Quốc Việt (2017) đã thực hiện kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài với sự biến động của chỉ số VN30-index trong giai đoạn sau đó của thị trường. Kết quả các nghiên cứu đều chỉ ra sự thay đổi của chỉ số chứng khoán có ảnh hưởng tới KLGDR, và không tồn tại tác động ngược lại từ KLGDR tới chỉ số chứng khoán. Nghiên cứu của Dương Ngân Hà (2018) lại cho thấy tồn tại mối quan hệ hai chiều giữa giá trị giao dịch ròng (GTGDR) và KLGDR của nhà đầu tư nước ngoài tới chỉ số VN-Index trong khoảng thời gian giao dịch 2 ngày liền trước khi nghiên cứu chuỗi giá từ 6/2016 đến 6/2018.

Như vậy, các nghiên cứu trước đây đều chỉ ra, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa khối lượng giao dịch và chỉ số giá cổ phiếu.

Nghiên cứu về quyết định giao dịch của nhà đầu tư tập trung chủ yếu vào khối lượng và GTGDR của nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, nhóm nhà đầu tư chuyên nghiệp (các tổ chức kinh doanh chứng khoán) ít được quan tâm. Dựa trên kết quả các nghiên cứu trước về mối quan hệ giữa các biến số này, tác giả sử dụng phương pháp kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger, mô hình Tự hồi quy VAR để đánh giá tác động của KLGDR NN và KLGDR TD tới chỉ số VN-Index. Bài nghiên cứu được chia làm 4 phần, dữ liệu và phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày tại phần 2, kết quả nghiên cứu được trình bày tại phần 3 và cuối cùng là kết luận.

2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu Dữ liệu

Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thống kê biến động chỉ số VN-Index, KLGDR TD và KLGDR NN trên HOSE trong giai đoạn từ tháng 01/2015 đến tháng 9/2020. Dữ liệu được lấy từ Finpro và theo ngày giao dịch.

Kiểm định nghiệm đơn vị

Để kiểm tra tính dừng của chuỗi dữ liệu nghiên cứu, tác giả sẽ sử dụng hai kiểm định là ADF (Augmented Dickey Fuller) và Phillips Perron (PP).

Hai kiểm định này đều có mô hình được viết dưới dạng như sau:

∆Yt = α0 + βYt - 1 + ∑kj=1 Øj∆Yt - 1 + εt (1)

∆Yt = α0 + δt + ∑kj=1 Øj∆Yt - 1 + εt (2)

Mô hình (1) và (2) khác nhau ở biến xu hướng về thời gian, dành cho những chuỗi dữ liệu có xu thế biến động.

Kết quả kiểm định của ADF và PP thường rất nhạy cảm với chiều dài độ trễ k nên sau khi thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị, tiêu chuẩn AIC (Akaike’s Information Criterion) được sử dụng để lựa chọn k tối ưu cho mô hình. Giá trị k được lựa chọn sao cho AIC là nhỏ nhất.

Giả thuyết kiểm định:

H0: Yt là chuỗi dữ liệu không dừng H1: Yt là chuỗi dữ liệu dừng Kiểm định nhân quả - Granger

Kiểm định nhân quả Ganger được thể hiện theo mô hình sau:

Yt = α0 + βjXt-i + γiYt-j + Uit

Xt = α1 + δiYt-i + θjYt-j + U2t

Với sự thay đổi của các hệ số hồi quy βj, δi, mối quan hệ giữa hai biến Xt và Yt được xác định như sau:

- Nếu βj ≠ 0và có ý nghĩa thống kê, nhưng

(5)

δi không có ý nghĩa thì sự biến động của X là nguyên nhân gây ra sự biến động của Y.

- Nếu βj không có ý nghĩa thống kê, nhưng δi ≠ 0 và có ý nghĩa thì sự biến động của Y là nguyên nhân gây ra sự biến động của X.

- Nếu βj ≠ 0 và δi ≠ 0 và có ý nghĩa thống kê thì X và Y có tác động qua lại lẫn nhau.

- Nếu βj và δi đều không có ý nghĩa thống kê thì X và Y là độc lập với nhau.

Sử dụng phương pháp kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger với KLGDR NN, KLGDR TD và biến động của chỉ số VN-Index, tác giả thực hiện lần lượt các bước sau:

- Bước 1: Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu nghiên cứu

- Bước 2: Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến nghiên cứu

- Bước 3: Xác định độ trễ phù hợp của mô hình- Bước 4: Hồi quy mô hình với các biến nghiên cứu và độ trễ phù hợp

3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Mô tả dữ liệu

Từ thống kê mô tả tại Bảng 1 có thể thấy, chỉ số VN-Index có biến động mạnh trong giai đoạn này khi giá trị cao nhất đạt 1.204,330 điểm và thấp nhất là 521,88

điểm. Trong khi đó, sinh lời của chỉ số VN- index (RVNI) biến động trong khoảng từ -6,3% tới 4.9% (theo đó RVNI được tính theo công thức tính tỷ suất sinh lời sau giai đoạn đầu tư - Chênh lệch giá/giá vốn).

KLGDR NN cũng có biến động trong biên độ rộng khi giá trị bán ròng lớn nhất đạt hơn 73 triệu cổ phiếu/ngày và mua ròng cao nhất đạt gần 56,5 triệu cổ phiếu/ngày. Giá trị trung bình nhận giá trị âm cho thấy nhà đầu tư nước ngoài có xu hướng bán ròng nhiều hơn trong giai đoạn này. Giao dịch tự doanh của CTCK cũng biến động theo xu hướng tương tự khi KLGDR TD bình quân đạt -372.983 cổ phiếu/ngày. CTCK mua ròng đạt giá trị lớn nhất gần 31,5 triệu cổ phiếu/ngày và bán ròng hơn 22 triệu cổ phiếu/ngày.

3.2. Kiểm định mối quan hệ nhân quả Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu Để thực hiện kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa các biến số của nghiên cứu, chuỗi dữ liệu cần đảm bảo tính dừng. Tác giả sử dụng kiểm định ADF (Augmented Dickey- Fuller) để thực hiện kiểm định với 03 chuỗi dữ liệu: Biến động của chỉ số VN-Index (tỷ suất sinh lời), KLGDR của nhà đầu tư nước ngoài và giá trị giao dịch ròng của nhà đầu

Bảng 1. Thống kê mô tả dữ liệu

RVNI VN-Index KLGDR NN KLGDR TD

Trung bình 0,000419 800,7963 -798662,5 -372982,8

Trung vị 0,001020 802,5050 -261740 -75140,00

Lớn nhất 0,049801 1204,330 56472790 31494333

Nhỏ nhất -0,062764 521,8800 -73413170 -22096270

Std. Dev, 0,010699 174,1037 6309135 3611756

Skewness -0,811208 0,054848 -2,096881 -0,106035

Kurtosis 7,962 1,718 32,456 16,144

Số lượng quan sát 1430 1430 1430 1430

Nguồn: Dữ liệu theo ngày từ Fiinpro, xử lý dữ liệu trên Eview8

(6)

tư nước ngoài. Kết quả kiểm định được thể hiện ở Bảng 2 cho thấy 03 chuỗi dữ liệu đều dừng với giá trị p-value ˂ 0,01, mức ý nghĩa 1%.

Kiểm tra độ trễ (Lag) của mô hình

Kiểm tra độ trễ tối đa nhằm xác định độ trễ của chuỗi dữ liệu khi kiểm định mối quan hệ nhân quả và độ trễ của các biến trong mô hình hồi quy xác định mức độ tác động.

Trong số các tiêu chuẩn kiểm định độ trễ (bao gồm LR, FPE, AIC, SC và HQ), dựa vào các nghiên cứu trước về mối quan hệ nhân quả, tác giả sử dụng tiêu chuẩn AIC để kiểm tra, độ trễ là phù hợp khi AIC nhận giá trị nhỏ nhất. Với độ trễ được lựa chọn là 8, kết quả Bảng 3 cho thấy độ trễ tối đa của mô hình là 3.

Kiểm định mối quan hệ nhân quả

Dựa trên kết quả xác định độ dài của trễ, thực hiện kiểm định Granger với các giả thuyết Ho theo từng cặp biến số: VNIDEX và KLGDR NN, VN-INDEX và KLGDR TD, KLGDR NN và KLGDR TD. Kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả theo từng cặp biến số được thể hiện ở Bảng 4. Những chiều tác động không tồn tại mối quan hệ nhân quả sẽ không được trình bày trong bảng này.

- Giao dịch tự doanh và chỉ số VN-Index KLGDR TD có mối quan hệ nhân quả 2 chiều với chỉ số VN-Index với độ trễ là 1 với mức ý nghĩa 10%. Kết quả này cho thấy giao dịch tự doanh của CTCK ngày hôm trước sẽ ảnh hưởng tới sự biến động của chỉ

số VN-Index trong ngày hôm sau. Khi độ trễ được tăng lên, mối quan hệ chỉ tồn tại theo chiều ngược lại, biến động của chỉ số chứng khoán 1, 2, 3 ngày giao dịch liền trước sẽ ảnh hưởng tới KLGDR TD. Điều này phù hợp với thực tế khi hoạt động giao dịch diễn ra theo chu kỳ thanh toán T+2 và biến động của chỉ số chung là cơ sở để các nhà đầu tư đưa ra quyết định giao dịch của mình.

- Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và chỉ số VN-Index

KLGDR NN có ảnh hưởng tới sự biến động của chỉ số VN-Index. Độ trễ của mối quan hệ này chỉ tồn tại trong 01 ngày giao dịch.

Trong khi đó, tác động của chỉ số chứng khoán lên giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài có độ trễ lên tới 3 ngày. Cụ thể, KLGDR NN tại ngày hôm nay sẽ bị ảnh hưởng bởi biến động của chỉ số VN-Index trong cả 03 ngày liền trước đó.

- Giao dịch tự doanh và giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài

Kết quả kiểm định Granger còn cho thấy tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa KLGDR NN tới KLGDR TD với độ trễ 1, mức ý nghĩa 10%. Trong khi tác động theo chiều ngược lại không tồn tại. Kết quả này cho thấy một thực tế rằng CTCK có sự nghiên cứu hành vi của các nhà đầu tư trên TTCK, bao gồm nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả mua bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài sẽ chi phối tới quyết định giao dịch của các CTCK. Ngược lại, khối lượng giao dịch tự doanh của các CTCK hiện không được công bố rộng rãi và không phải nhà đầu tư nào cũng có thể tiếp cận thông tin này.

Bảng 2. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu

RVNI KLDGR NN KLGDR TD

Augmented Dickey-Fuller (ADF) -17,1167 -22,009 -21,4666

Mức ý nghĩa 1% 1% 1%

Giả thuyết Ho: Chuỗi dữ liệu là dừng Chấp nhận Ho Chấp nhận Ho Chấp nhận Ho Nguồn: Xử lý dữ liệu trên Eview 8

(7)

3.3. Tác động của giao dịch tự doanh và giao dịch nhà đầu tư nước ngoài tới VN-Index Để đánh giá cụ thể hơn mức độ tác động của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài đến biến động của chỉ số chứng khoán trên TTCK Việt Nam, tác giả thực hiện kiểm định mô hình hồi quy Var với độ trễ lần lượt là 1, 2,

3 như đã xác định trước. Trên cơ sở kết quả kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger đối với 3 biến, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa các nhóm biến này. Tác giả lựa chọn 3 biến bao gồm: Sinh lời của chỉ số VN- Index , KLGDR TD và KLGDR NN.

Kết quả hồi quy cho thấy sự biến động của chỉ số VN-Index hàng ngày có mối tương Bảng 3. Kết quả kiểm định độ dài của trễ

Lag LogL LR FPE AIC SC HQ

0 -43335,94 NA 5,96E+22 60,9549 60,966 60,95905

1 -43181,77 307,4658 4,86E+22 60,75073 60,79512 60,76731 2 -43130,53 101,976 4,58E+22 60,69132 60,76900* 60,72034 3 -43104,84 51,01023 4,47e+22* 60,66785* 60,77882 60,70930*

4 -43097,27 15,01534 4,48E+22 60,66985 60,81411 60,72374 5 -43088,27 17,78748 4,48E+22 60,66986 60,84741 60,73618 6 -43082,53 11,3196 4,50E+22 60,67445 60,88529 60,75321 7 -43072,17 20,40316* 4,49E+22 60,67254 60,91666 60,76372 8 -43064,44 15,19072 4,50E+22 60,67432 60,95174 60,77794

Nguồn: Xử lý dữ liệu trên Eview 8 Bảng 4. Kết quả kiểm định Granger

Giả thuyết Ho Trễ P Ý nghĩa

KLGDR NN không có mối quan hệ nhân quả

với VN-INDEX 1 0,0423** Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR NN 1 0,0074*** Có mối quan hệ

KLGDR TD không có mối quan hệ nhân quả

với VN-INDEX 1 0,0898* Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR TD 1 0,07* Có mối quan hệ

KLGDR NN không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR TD 1 0,0585* Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR NN 2 0,0003*** Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR TD 2 0,000*** Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR NN 3 0,0011*** Có mối quan hệ

VN-INDEX không có mối quan hệ nhân quả

với KLGDR TD 3 0,000*** Có mối quan hệ

(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5%, (***) mức ý nghĩa 1%

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu trên Eview 8

(8)

quan thuận với chính biến động của chỉ số đó trong các cả 03 ngày giao dịch liền trước, Hệ số hồi quy của RVNI ở trễ 1 và 2 tương ứng 0,08 hay nếu chỉ số VN-Index tại ngày hôm nay hoặc hôm qua tăng 1%, chỉ số VN-Index ngày mai sẽ tăng tương ứng 0,08%. Biến động của chỉ số VN- Index trước 3 ngày không có tác động tới chỉ số VN-Index ngày hôm nay. Như vậy mối quan hệ này tồn tại trong 2 ngày liền trước ngày giao dịch.

KLGDR NN và KLGDR TD có tác động tích cực tới chỉ số VN-Index ngày giao dịch liền sau đó. Kết quả mô hình 1, mô hình 2 và mô hình 3 đều cho thấy khối lượng giao dịch tự doanh ròng ngày hôm trước sẽ có tác động tích cực tới biến động của chỉ số chứng khoán với mức ý nghĩa là 5% và

10%. Điều này cho thấy thực tế về kỳ vọng của các nhà đầu tư chuyên nghiệp (CTCK), quyết định giao dịch được dựa trên những phân tích và phán đoán tương đối chính xác về biến động của thị trường. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài cũng có tác động tới biến động của chỉ số VN-Index theo tương quan dương, mặc dù hệ số hồi quy rất nhỏ cho thấy mức tác động không đáng kể. Kết quả trong 3 mô hình cho thấy chỉ tồn tại tác động có ý nghĩa thống kê với trễ 1, mức ý nghĩa 5%. Nói cách khác, KLGDR NN ngày hôm nay tăng thêm 1 triệu cổ phiếu sẽ tác động làm tăng điểm chỉ số VN-Index vào ngày hôm sau theo giá trị của hệ số tương quan.

4. Kết luận

Bảng 5. Kết quả kiểm định hồi quy

Biến số Mô hình 1

Trễ 1 Mô hình 2

Trễ 2 Mô hình 3

Trễ 3

RVNI (-1) 0,0799

(3,03***) 0,0743

(2,81***) 0,0742

(2,79***) KLGDR NN (-1) 1,45E-10

(1,85**) 9,23E-11

(1,88**) 7,76E-11

(1,549) KLGDR TD (-1) 9,71E-11

(2,16**) 1,58E-10

(2,00*) 1,68E-10

(2,11**)

RVNI(-2) 0,0814

(3,07***) 0,0811

(3,05***)

KLGDR NN (-2) -1,61E-11

(-0.03) -3,95E-11

(-0,764)

KLGDR TD (-2) -2,59E-11

(-0,33) -1,55E-11

(-0,19)

RVNI (-3) 0,0054

(0,20)

KLGDR NN (-3) 6,83E-11

(1,37)

KLGDR TD (-3) -6,03E-11

(-0,76)

C 0,0005

(1,79**) 0,0004

(1,581) 0,0004

(1,59)

R2 0,0118 0,0185 0,0203

Số quan sát 1429 1428 1427

(*) mức ý nghĩa 10%, (**) mức ý nghĩa 5%, (***) mức ý nghĩa 1%

Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu trên Eview 8

(9)

Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của hai nhóm nhà đầu tư được đánh giá là chuyên nghiệp trên TTCK bao gồm CTCK và nhà đầu tư nước ngoài lên biến động của chỉ số VN-Index trong giai đoạn 2015 đến 9/2020.

Đây được xem là giai đoạn hồi phục của TTCK Việt Nam, mức độ hồi phục tốt khi giá trị bình quân của chỉ số chứng khoán đạt mức cao, chỉ số đạt mức cao nhất trong lịch sử giao dịch của thị trường (tháng 4/2018 chỉ số VN-index đạt đỉnh khi vượt mốc 1200 điểm). Kết quả giao dịch thực tế của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn nghiên cứu được sử dụng để đại diện cho hành vi giao dịch của hai nhóm nhà đầu tư trên. Để kiểm định và đánh giá tác động của các biến số, tác giả sử dụng kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger và mô hình hồi quy VAR với các chuỗi dữ liệu KLGDR TD, KLGDR NN và biến động của chỉ số VN-Index.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động giao dịch của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài tới biến động của chỉ số VN-Index. Thứ nhất, KLGDR NN và KLGDR TD có ảnh hưởng tới biến động của chỉ số chứng khoán với độ trễ là 1 ngày. Nói cách khác, trạng thái giao dịch của hai nhóm nhà đầu tư này tại ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng tới chỉ số VN-Index vào ngày hôm sau. Trong khi đó, biến động của chỉ số chứng khoán có ảnh hưởng trong khoảng thời gian dài hơn tới quyết định giao dịch của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài. Với độ trễ 1 ngày, 2 ngày và 3 ngày, chỉ số VN-Index đều có tác động lên giao dịch của 2 nhóm nhà đầu tư này. Thêm vào đó, kiểm định Granger còn cho thấy tồn tại mối quan hệ một chiều giữa KLGDR NN tới KLGDR TD. Điều này cho thấy mức độ ảnh hưởng trong hành vi giao dịch của khối ngoại tới quyết định của hoạt động tự doanh tại các CTCK Việt Nam.

Thứ hai, sử dụng mô hình tự hồi quy VAR,

kết quả kiểm định mô hình cho thấy mức độ tác động của KLGDR của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài lên chỉ số VN-Index. Tác động là cùng chiều và có ý nghĩa thống kê với độ trễ 1 ngày. Khi nhà đầu tư nước ngoài và CTCK giao dịch tích cực tại ngày hôm trước sẽ làm chỉ số tăng vào ngày hôm sau.

Hệ số tương quan dương nhưng nhỏ cho thấy mức độ tác động là không lớn. Kết quả hồi quy phù hợp với mối quan hệ nhân quả trước đó khi lấy độ trễ 2 ngày và 3 ngày của KLGDR TD và KLGDR NN đều không cho thấy tác động tới chỉ số VN-Index.

Tóm lại, CTCK và nhà đầu tư nước ngoài là hai trong số các nhóm nhà đầu tư được đánh giá là chuyên nghiệp hơn so với các nhà đầu tư cá nhân trong nước tham gia TTCK.

Quyết định giao dịch của họ thường dựa trên những phân tích và chiến lược giao dịch cụ thể. Do đó hành vi giao dịch của hai nhóm nhà đầu tư này sẽ có tác động nhất định tới biến động của TTCK mặc dù khối lượng và giá trị giao dịch có thể chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường. Kết quả nghiên cứu đóng góp về mặt thực tiễn nhằm khẳng định sự tồn tại mối quan hệ tác động hai chiều giữa chỉ số chứng khoán với hoạt động giao dịch của một số nhóm nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường, mà trong nghiên cứu này là các nhà đầu tư nước ngoài và CTCK. Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ, quan sát và phân tích xu hướng đầu tư của CTCK và nhà đầu tư nước ngoài để hỗ trợ cho việc ra quyết định đầu tư của mình. Đối với các nhà quản lý, cần có những quy định điều chỉnh và quản lý phù hợp đối với mỗi nhóm nhà đầu tư dựa trên mức độ ảnh hưởng của họ tới TTCK.

Do hạn chế về khả năng thu thập dữ liệu cho các nhóm chủ thể khác như quỹ đầu tư, nhà đầu tư có tổ chức,… kết quả bài nghiên cứu mới chỉ phản ánh được mối quan hệ nhân quả giữa biến động của chỉ số VN- Index và hoạt động giao dịch của hai nhóm

(10)

nhà đầu tư bao gồm CTCK và nhà đầu tư nước ngoài trên HOSE. Thêm vào đó, Luật Chứng khoán 2019 (Luật số 54/2019/

QH14) có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 đã quy định lại tiêu chí xác định nhà đầu tư chuyên nghiệp tham gia TTCK, sự thay đổi này sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu cũng như đối tượng nghiên cứu về quyết định giao dịch của các nhóm chủ thể tham gia TTCK trong thời gian tới ■

Tài liệu tham khảo

Griffin, J.M., Nardari, F. and Stulz, R.M. (2004). “Are daily cross-border equity flows pushed or pulled?”, The MIT Press Review of Economics and Statistics, 86(3), pp. 641-657.

Inoue, T. (2008), “The causal relationships in mean and variance between stock returns and foreign institutional investment in India”, The Journal of Applied Economic Research, 3(4), pp. 319-338

Dương Ngân Hà (2018), “Dự báo biến động của chỉ số VN-Index thông qua khối lượng giao dịch ròng và giá trị giao dịch ròng của nhà đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Khoa học& Đào tạo Ngân hàng, số 195, trang 18-25.

Trương Đông Lộc và Đặng Thị Thùy Dương (2011), “Quan hệ giữa HNX-index và khối lượng giao dịch cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 62, trang 4-8.

Trương Đông Lộc và Mai Quốc Việt, (2017), “Kiểm định mối quan hệ nhân quả giữa khối lượng cổ phiếu giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài và sự biến động của chỉ số VN30-index”, Tạp chí kinh tế doanh nghiệp, số 90, trang 44-52.

Dữ liệu được lấy từ Fiinpro, StockQ.org

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Trong đó phải kể đến các nguyên nhân chủ quan như: Quy mô vốn chưa đủ lớn, cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý, việc quản lý các khoản chi phí chưa hiệu quả,

Sau khi tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc đối với người lao động, tác giả nhận thấy rằng lý thuyết hai nhân tố của Herzberg là

nhà xưởng, doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc luôn tồn tại những vấn đề phức tạp như: (1) Tình trạng người dân bị thu hồi diện tích đất đang công tác

Nếu một cổ phiếu có mức giá trên thị trường khác so với giá trị cơ bản của nó (bằng nhiều lí do, một trong số đó là từ hoạt động của các nhà đầu tư không chuyên), ví

Thông qua việc nghiên cứu sự tác động của công tác đánh giá thực hiện công việc theo Thẻ điểm cân bằng đến kết quả thực hiện công việc của đội ngũ nhân viên tại

Bảng 1 cho thấy khi khu vực nước ngoài sử dụng hàm sản xuất với công nghệ sử dụng vốn vật chất càng cao thì càng có tác động tích cực đến sản lượng của nền kinh tế,

Các nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này, đặc biệt là nghiên cứu về tác động của TPP tới FDI vào Việt Nam trong từng lĩnh vực là rất cần thiết để Nhà

Tuy nhiên, tỷ số khả dĩ dƣơng tính cho mối liên quan giữa nồng độ KT kháng dsDNA với đợt cấp thận lupus cũng khá thấp, có nghĩa là xét nghiệm này cũng không có nhiều