ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ đề: Đa dạng sinh học ở Việt Nam, hiện trạng và thách thức Người thực hiện: Nguyễn Văn Hiếu. Chủ đề “Đa dạng sinh học ở Việt Nam, hiện trạng và thách thức” nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng như những vấn đề “nóng” liên quan đến bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm hứng chịu từ 5 đến 8 cơn bão và áp thấp nhiệt đới kèm theo mưa lớn. Các nghiên cứu cho thấy rừng ngập mặn ven biển Việt Nam giúp giảm ít nhất 20-50% thiệt hại do bão, nước biển dâng và sóng thần gây ra.
HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Đa dạng hệ sinh thái
10 Chư Mom Ray Kon Tum Bảo tồn đa dạng sinh học, hệ sinh thái rừng và các loài động, thực vật quý hiếm. Bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên trên đảo và các loài đặc hữu quý hiếm. 21 Phú Quốc Kiên Giang Bảo tồn hệ sinh thái rừng đảo, các loài đặc hữu, quý hiếm.
Bảo tồn hệ sinh thái rừng khộp, các loài nguy cấp, quý hiếm (Voi, Bò tót, Hổ).
Đa dạng sinh học loài
Thống kê cho thấy số lượng loài mới tìm thấy ở Việt Nam chiếm hơn một nửa số loài mới ở tiểu vùng sông Mê Kông (bao gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam) (WWF, 2015). Ví dụ, có nhiều loài quan trọng, trong đó loài côn trùng lớn thứ hai trên thế giới là loài côn trùng hình que dài 54 cm được tìm thấy ở miền Bắc Việt Nam. Vì vậy, cam kết bảo vệ môi trường sống quan trọng của các loài hoang dã quý hiếm là điều cần thiết. Hiện nay, số lượng mẫu vật các loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ngày càng giảm.
Số lượng các loài thủy sản, đặc biệt là các loài tôm, cá có giá trị kinh tế đang giảm nhanh. Số lượng cá thể các loài cá nước ngọt quý hiếm, có giá trị kinh tế và các loài chim di cư giảm. Theo số liệu thống kê về hiện trạng các loài nguy cấp, quý hiếm, nhiều loài đang ở mức báo động và có nguy cơ tuyệt chủng cao do bị khai thác quá mức và mất môi trường sống. Đặc biệt, có nhiều loài đặc hữu như: Khỉ vòi (Rhinopithecus avunculus) ước tính chỉ còn lại khoảng 190 cá thể.
Sự phân bố loài trong rừng ngập mặn thay đổi theo địa hình, chất lượng đất, biên độ thủy triều và độ mặn. Rừng ngập mặn là nơi ở, làm tổ của nhiều loài chim, động vật thủy sinh và động vật quý hiếm như cá sấu nước mặn, chim nước, khỉ đuôi dài... Rừng ngập mặn hỗ trợ các loài thủy sản, đặc biệt là tôm sú và tôm biển xuất khẩu.
Đa dạng nguồn gen
Nguồn: Báo cáo “Hoạt động khoa học công nghệ trong lĩnh vực quản lý, khai thác bảo tồn thiên nhiên - Phát triển nguồn gen”, Bộ Khoa học và Công nghệ, các ngành Kinh tế - Kỹ thuật, Bộ. Việt Nam cũng có nguồn gen thủy sản và vi sinh vật phong phú (Hiệu quả của Chương trình bảo tồn nguồn gen cây trồng, vật nuôi, Bản tin Sản xuất thị trường, Bản tin Khuyến nông trong nước, số 46/2012). Đây là nguồn gen bản địa quý giá của đất nước cần được bảo vệ, bảo tồn và phát triển (Bộ Khoa học và Công nghệ, 12/201).
Cho đến nay, bảo tồn in situ ở Việt Nam chủ yếu được áp dụng đối với nguồn gen rừng và cây dược liệu dưới hình thức khu bảo tồn thiên nhiên. Một số lượng nhỏ nguồn gen từ cây nông nghiệp, cây thuốc và vật nuôi bước đầu đã được bảo tồn trên đất canh tác. Một số nguồn gen đặc biệt có giá trị, khó tái sinh tự nhiên đã được nghiên cứu và bảo tồn in vitro trong phòng thí nghiệm.
Đối với nguồn gen động vật, việc bảo quản tinh trùng và phôi của vật liệu di truyền ở những nơi có nguy cơ thất thoát, quý hiếm cũng được áp dụng. Nguồn: Báo cáo “Hoạt động khoa học công nghệ trong quản lý bảo tồn và khai thác - phát triển nguồn gen”, Vụ Khoa học và Công nghệ, các ngành Kinh tế kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tạp chí Báo cáo Hội nghị Môi trường. Như vậy, nguồn gen của 26 loài cá thương phẩm đã được sử dụng để phát triển nuôi trồng thủy sản.
NHỮNG NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GIẢM ĐA DẠNG SINH HỌC Ở
- Chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mặt nước thiếu cơ sở khoa học và sự xuất
- Gia tăng dân số, mức tiêu thu tài nguyên ngày càng nhiều và khai thác quá mức
- Ô nhiễm môi trường và biển đổi khí hậu
- Nguồn lực cho công tác bảo tồn còn hạn chế
Cụ thể, các loài đặc hữu của Việt Nam thường có năng suất thấp, chất lượng không đồng đều. Theo thống kê, số lượng cây ngoại nhập vào Việt Nam tương đối lớn qua nhiều con đường khác nhau. Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có diện tích rừng lớn nhất và cũng là nơi có lượng người di cư đến đông nhất.
Vì vậy, tài nguyên sinh vật ngày càng cạn kiệt, số lượng loài hoang dã ngày càng giảm, số lượng quần thể sinh học ngày càng giảm và nguồn gen ngày càng cạn kiệt. Để hạn chế sự suy giảm về diện tích và chất lượng rừng tự nhiên, Chính phủ Việt Nam đã ban hành hàng loạt quy định nhằm kiểm soát hoạt động khai thác gỗ thương mại. Nguồn rác thải từ các khu công nghiệp tuy tập trung nhưng lượng rác thải rất lớn, trong khi việc xử lý, xử lý rác thải khu công nghiệp còn hạn chế.
Lượng nước thải còn lại được làm sạch một phần bằng các thiết bị được miễn đấu nối, tự làm sạch và một phần thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý (Báo cáo hiện trạng môi trường nhà nước, 2015). Năng suất, sản lượng tăng liên tục kéo theo nhu cầu sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự biến đổi của lượng mưa có xu hướng rất lớn: tăng trong mùa mưa và giảm trong mùa khô.
Nguồn lực cho công tác bảo tồn còn thiếu về số lượng và chưa mạnh về chất lượng. Mặc dù số lượng lớn các KBT đã được thành lập và hoạt động lâu năm nhưng phần lớn còn nhỏ lẻ, manh mún nên việc quản lý KBT gặp khó khăn.
MỘT SỐ THÁCH THỨC TRONG CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐDSH
- Sức ép từ phát triển kinh tế
- Mất rừng
- Đói nghèo
- Hệ thống pháp luật và quản lý
Hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các khu công nghiệp chỉ có thể xử lý được khoảng 60% lượng nước thải phát sinh. Sự gia tăng sản xuất nông nghiệp trong những năm gần đây cũng có tác động không nhỏ đến hệ sinh thái nông nghiệp. Nước ta nằm trong nhóm các nước tiêu thụ lượng năng lượng tương đối lớn so với khu vực và thế giới.
Tăng trưởng kinh tế giúp cải thiện mức sống của người dân và tăng nhu cầu năng lượng. Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng có nghĩa là nguồn cung năng lượng không thể theo kịp nhu cầu. Số lượng loài và số lượng cá thể các loài hoang dã giảm mạnh.
Nhiều loài hoang dã có giá trị đã bị suy giảm hoàn toàn hoặc có nguy cơ tuyệt chủng nghiêm trọng. Nhiều loài quý hiếm khác đã bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng. Lực lượng bảo vệ rừng còn mỏng, địa bàn hoạt động rộng, trang thiết bị, phương tiện còn thiếu, chưa đáp ứng được thực trạng quản lý bảo vệ rừng hiện nay.
KẾT LUẬN
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn nhiều thiếu sót, thiếu sót. Điều này thể hiện rõ ở tính chồng chéo, mơ hồ, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, thiếu hệ thống của các quy định trong văn bản pháp luật. Năng lực quản lý ĐDSH quốc gia còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển.
Thể hiện vai trò điều phối, Chính phủ và các cấp chính quyền giúp thống nhất quản lý nhà nước về môi trường trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường còn nhiều bất cập, lúng túng, kém hiệu quả do thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng. Ở cấp địa phương, cơ cấu tổ chức và năng lực của các tổ chức chuyên môn về đa dạng sinh học chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng, mất cân đối về cơ cấu.
Ngoài ra, nguồn tài chính cho đầu tư từ ngân sách nhà nước còn hạn chế. Từ năm 2006 đến nay, chi cho mục đích môi trường (trong đó có bảo tồn đa dạng sinh học) ở Việt Nam đạt 1% tổng ngân sách từ các nguồn ngân sách trung ương và địa phương. So với GDP, tỷ trọng chi ngân sách cho môi trường chỉ khoảng 0,4% GDP.