• Không có kết quả nào được tìm thấy

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Chia sẻ "Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng "

Copied!
11
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng

thanh toán của các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Trần Mạnh Dũng Nguyễn Nam Tài

Ngày nhận: 15/06/2018 Ngày nhận bản sửa: 25/07/2018 Ngày duyệt đăng: 24/08/2018

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp chế biến thực phẩm niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính (BCTC) đã được kiểm toán của 31 công ty chế biến thực phẩm niêm yết trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016.

Nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) và các kiểm định để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp trong mẫu.

Kết quả chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời trên tài sản (ROA), tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS), thời kỳ hoạt động (AGE) và cấu trúc tài sản (AS) có tác động cùng chiều với tỷ suất thanh toán. Ngược lại, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất nợ có tác động ngược chiều. Dựa trên kết quả nghiên cứu, một số khuyến nghị được đưa ra nhằm tăng khả năng thanh toán của các doanh nghiệp trong tương lai.

Từ khóa: Nhân tố ảnh hưởng, khả năng thanh toán, chế biến thực phẩm

1. Giới thiệu

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để

đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho vay hoặc nợ đối với doanh nghiệp. Vấn đề làm cho các chủ doanh nghiệp lo ngại trong quá trình hoạt

(2)

động kinh doanh đó là các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi và các khoản phải trả không có khả năng thanh toán. Do đó, doanh nghiệp cần duy trì một mức vốn luân chuyển hợp lý để đáp ứng kịp thời các khoản nợ ngắn hạn, duy trì số lượng và các loại hàng tồn kho để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra một cách thuận lợi. Ở các nước trên thế giới theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có thể bị tuyên bố phá sản theo yêu cầu của các chủ nợ khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả.

Luật Doanh nghiệp Việt Nam cũng quy định về những nội dung liên quan đến phá sản. Do vậy các doanh nghiệp luôn luôn quan tâm đến các khoản nợ đến hạn phải trả và chuẩn bị sẵn sàng nguồn lực để thanh toán. Điều đó có thể dễ dàng nhận ra việc đảm bảo được khả năng thanh toán góp phần giúp cho doanh nghiệp duy trì, giữ vững được bộ máy hoạt động của mình để tiếp tục đầu tư và phát triển đem lại lợi nhuận trong tương lai.

Các nghiên cứu về khả năng thanh toán của các công ty niêm yết cổ phiếu trên TTCK Việt Nam vẫn chưa được đề cập nhiều và còn hạn chế trong phương pháp nghiên cứu. Khi hiểu rõ về tình hình khả năng thanh toán, nhà quản lý sẽ có định hướng chính xác hơn trong việc đầu tư nguồn vốn của mình, hạn chế những rủi ro đáng tiếc. Do đó, việc thực hiện nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán được cho là thực sự cần thiết, trong đó có các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên TTCK Việt Nam.

2. Tổng quan nghiên cứu

Trong nước và trên thế giới, các công trình nghiên cứu cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm về khả năng thanh toán đã được đưa ra thảo luận. Nội dung đánh giá tác động của từng nhân tố riêng lẻ và tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

2.1. Nghiên cứu quốc tế

Opler và cộng sự (1999) đã tiến hành nghiên cứu các yếu tố tác động đến thanh khoản của

1.048 công ty của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1971- 1994. Các tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy OLS để kiểm định các khuyết tật, sự phù hợp của mô hình. Biến phụ thuộc là hệ số thanh khoản, biến độc lập bao gồm 8 biến: quy mô, vốn lưu động, đòn bẩy, chi trả cổ tức, tỷ lệ dòng tiền/tài sản, tỷ lệ chi tiêu vốn/tổng tài sản, rủi ro ngành, và tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển/

doanh thu. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô, vốn lưu động, đòn bẩy tài chính, chi trả cổ tức có tương quan âm đến tính thanh khoản.

Mặt khác, tỷ lệ dòng tiền/tài sản, rủi ro ngành, tỷ lệ chi tiêu vốn/tổng tài sản và tỷ lệ chi phí nghiên cứu phát triển/doanh thu có tương quan dương với tính thanh khoản.

Bruinshoofd và Kool (2004) đã tiến hành thực nghiệm về khả năng thanh khoản ngắn hạn của các công ty Hà Lan. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu 453 doanh nghiệp giai đoạn 1986- 1997.

Các mô hình được xây dựng và kiểm định trong nghiên cứu gồm (i) sai số nhỏ nhất (OLS); (ii) tác động cố định; (iii) tác động ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn lưu động, đầu tư và lợi nhuận trên tài sản lại có quan hệ tương quan âm đến khả năng thanh khoản của công ty, còn lại các nhân tố khác có tương quan dương tới khả năng thanh toán: quy mô, tài sản, doanh thu, tổng nợ, nợ ngắn hạn, thu nhập khác và lãi suất bình quân.

Isshaq và Bokpin (2009) nghiên cứu các yếu tố quyết định tính thanh khoản tại Ghana với dữ liệu cho giai đoạn 1991-2007 của các công ty niêm yết để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố gồm quy mô, vốn lưu động, tỷ lệ đầu tư và lợi nhuận trên tài sản đối với tính thanh khoản. Nghiên cứu sử dụng mô hình bảng điều khiển động, trong đó một biến đáng tin cậy bị trễ được đưa vào dưới dạng biến giải thích.

Biến độc lập đưa vào mô hình bao gồm quy mô, lợi nhuận trên tài sản và vốn lưu động và tỷ lệ đầu tư. Kết quả của nghiên cứu cho thấy quy mô, lợi nhuận trên tài sản và vốn lưu động và tỷ lệ đầu tư đều có quan hệ thuận chiều với khả năng thanh khoản của công ty.

Chen và Mahajan (2010) nghiên cứu các công ty từ 45 quốc gia giai đoạn 1994- 2005 với mục tiêu là đánh giá khả năng thanh khoản của công ty. Kết quả cho thấy các biến kinh tế vĩ mô như

(3)

tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất ngắn hạn thực, thâm hụt ngân sách, tín dụng, tín dụng tư nhân, và thuế suất ảnh hưởng trực tiếp về số dư tiền mặt của công ty, đồng nghĩa với việc ảnh hưởng đến khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty. Nghiên cứu này đã mở rộng ra các nhân tố vĩ mô từ đó thiết lập vai trò của nhà nước, cũng như đưa ra các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô để nâng cao khả năng thanh toán ngắn hạn cho các công ty.

Gill và Mathur (2011) với mẫu nghiên cứu 164 công ty giai đoạn 2008- 2010 trên TTCK Toronto, Canada. Nghiên cứu sử dụng ANOVA Test để kiểm định sự tương quan Pearson, đa cộng tuyến, sự phù hợp của mô hình nhằm tìm ra các yếu tố tác động đến thanh khoản của công ty. Kết quả cho thấy các biến gồm quy mô, vốn lưu động ròng, nợ ngắn hạn, tỷ lệ đầu tư và yếu tố ngành có tương quan dương đến thanh khoản của công ty. Các biến có tác động tương quan âm đến thanh khoản là tỷ lệ nợ, vốn lưu động ròng và tỷ lệ đầu tư.

Như vậy có thể thấy đã nhiều nghiên cứu trên thế giới về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, chủ yếu là khả năng thanh toán ngắn hạn. Các nhà nghiên cứu sử dụng các dữ liệu trong các ngữ cảnh khác nhau với các phương pháp nghiên cứu sử dụng đa dạng, có sự kế thừa bổ sung các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh toán. Hầu hết các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng xuất phát từ nội bộ doanh nghiệp, đặc biệt nhà nghiên cứu Chen và Mahajan (2010) đưa ra các biến kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất ngắn hạn thực, thâm hụt ngân sách, tín dụng, tín dụng tư nhân và thuế suất. Các nhân tố này cũng ảnh hưởng đến khả năng thanh toán ngắn hạn của công ty.

2.2. Nghiên cứu trong nước

Có nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh toán tại doanh nghiệp các ngành khác nhau với thời gian nghiên cứu cũng khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến:

Nguyễn Đình Thiên và cộng sự (2014) với đề tài “Các yếu tố tác động đến khả năng thanh khoản của doanh nghiệp niêm yết tại Việt

Nam”. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp từ các BCTC đã được kiểm toán của các Công ty đang niêm yết trên TTCK HNX. Dữ liệu được thu thập từ BCTC ở giai đoạn 2007- 2013 với 620 công ty niêm yết. Phương pháp nghiên cứu bằng phương pháp Forward Stepwise. Bên cạnh đó, kiểm định đa cộng tuyến nhằm kiểm tra mức độ tương quan giữa các biến. Các mô hình được xây dựng và kiểm định trong nghiên cứu để tìm ra mô hình phù hợp nhất với dữ liệu và các biến được chọn lựa là: (i) sai số nhỏ nhất;

(ii) tác động cố định; (iii) tác động ngẫu nhiên;

(4) sai số bình phương có trọng số. Điều này cho phép chọn lựa được các biến độc lập phù hợp nhất, giải thích được nhiều nhất cho biến cần nghiên cứu. Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này là khả năng thanh toán và đại diện là khả năng thanh toán Ngắn hạn; biến độc lập là tỷ số P/B, tỷ số P/E, ROA, tỷ số nợ, tỷ lệ lưu chuyển thuần, tỷ lệ vốn lưu động. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: tỷ lệ vốn lưu động thuần và tỷ số P/B tác động mạnh nhất đến khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp niêm yết. Các yếu tố trên cũng có tương quan dương với khả năng thanh khoản bên cạnh tỷ số P/E và tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần. Trong khi đó, tỷ lệ nợ và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản có tương quan âm đến khả năng thanh khoản. Như vậy, nghiên cứu này đã mở cho tác giả hướng nghiên cứu tới doanh nghiệp các ngành riêng biệt nhau niêm yết. Mỗi ngành lại có những đặc thù riêng, đối với doanh nghiệp chế biến thực phẩm thì yêu cầu khả năng thu hồi vốn nhanh nên các doanh nghiệp trong ngành khi quản lý tốt lượng vốn, khả năng thanh toán cũng như các chỉ tiêu tài chính khác sẽ góp phần tích cực và toàn diện đến nền kinh tế.

Vũ Thị Hồng (2015) với đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam”. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu được thu thập từ các BCTC hợp nhất hàng năm của 37 ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 2006- 2011. Dữ liệu được lấy trên trang web của các công ty chứng khoán cũng như của chính các ngân hàng đó. Mẫu nghiên cứu bao gồm 37 ngân hàng với tổng cộng 185 quan sát cho dữ liệu bảng không cân xứng. Các BCTC

(4)

hợp nhất là cơ sở để xem xét hoạt động của các ngân hàng hiện đại. Phương pháp nghiên cứu sử dụng là phương pháp định lượng, sử dụng kỹ thuật hồi quy bảng. Đồng thời, nghiên cứu chỉ sử dụng 1 mô hình hồi quy, mỗi mô hình chạy 2 hiệu ứng (FEM và REM) với OLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy “Tỷ lệ vốn chủ sở hữu”, “Tỷ lệ nợ xấu” và “Tỷ lệ lợi nhuận” có tác động cùng chiều đối với khả năng thanh khoản của NHTM; ngược lại, “Tỷ lệ cho vay trên huy động” có tác động ngược chiều với khả năng thanh khoản của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm thấy ảnh hưởng của “Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng”, “Quy mô ngân hàng” đối với khả năng thanh khoản của các NHTM Việt Nam. Như vậy, nghiên cứu này đã hướng tới lĩnh vực ngân hàng, cụ thể là các NHTM. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các nhà quản lý ngân hàng cần thực hiện là đảm bảo khả năng thanh khoản hợp lý cho ngân hàng. Ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt, hay nói cách khác là ngân hàng không gặp rủi ro thanh khoản khi luôn có được nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà ngân hàng cần. Điều này có nghĩa nếu ngân hàng không có đủ nguồn vốn cần thiết để đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường sẽ có thể mất khả năng thanh toán, mất uy tín và dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống.

Thái Văn Đại và Trần Việt Thanh Trúc (2018) với bài viết “Đánh giá các nhân tố tác động đến tỷ lệ thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, sử dụng dữ liệu được thu thập từ 24 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 10 năm (2006- 2015). Với phương pháp thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu, đồng thời phân tích hồi quy với thiết kế nghiên cứu định lượng mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản tại NHTM bởi mô hình tác động cố định- FEM. Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến quy mô ngân hàng (SIZE), rủi ro tín dụng (LLP), tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng nguồn vốn (CAP), tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản (TLA) và tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là những nhân tố có mối tương quan âm và có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ thanh khoản. Duy nhất biến khả năng sinh lợi (ROE) có mối tương quan dương đến tỷ lệ thanh khoản

của các NHTM. So với nghiên cứu của Vũ Thị Hồng (2015) thì nghiên cứu này đã có sự khác biệt, đó là tỷ lệ rủi ro tín dụng và quy mô của ngân hàng đều ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản, đặc biệt tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của GDP cũng có mối tương quan âm tới khả năng thanh khoản của NHTM Việt Nam. Khả năng sinh lời ROE được tác giả bổ sung biến độc lập mới. Sự khác biệt so với nghiên cứu trước là do quy mô mẫu nhỏ, thời kỳ nghiên cứu không dài và cả sự tác động sâu rộng của hội nhập kinh tế quốc tế chưa nhiều và sâu sắc như hiện nay.

Như vậy, các nghiên cứu về khả năng thanh toán ở trong và ngoài nước trước đây đã chứng tỏ rằng khả năng thanh toán chịu sự tác động bởi các nhân tố khác nhau và có sự khác biệt giữa những nhóm doanh nghiệp thuộc các ngành nghề kinh doanh khác nhau cũng như tại thời gian hay không gian nghiên cứu khác nhau.

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng của các nghiên cứu thực nghiệm chủ yếu là phân tích tương quan và phân tích hồi quy tuyến tính nhiều biến với dữ liệu được thu thập, kết hợp với những kiểm định thích hợp. BCTC là nguồn tài liệu chủ yếu để tính toán ra các chỉ tiêu tài chính mà xuất hiện trong mô hình nghiên cứu của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Nối tiếp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây, nghiên cứu này cũng tập trung vào đối tượng khảo sát là các Công ty chế biến thực phẩm niêm yết nhưng với quy mô mẫu lớn hơn, thời gian nghiên cứu gần đây và đặc biệt là các nhân tố được đưa vào mô hình nghiên cứu đa dạng và toàn diện hơn.

3. Thu thập dữ liệu và phương pháp nghiên cứu

3.1. Mô hình nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm lượng hóa ảnh hưởng của các nhân tố là khả năng sinh lời, quy mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động của doanh nghiệp, tỷ số nợ, tăng trưởng GDP và lạm phát để chọn lọc đưa vào mô hình hồi quy nhằm kiểm nghiệm tác động của chúng, dựa theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Thiên và cộng sự

(5)

(2014), đối với thực tiễn khả năng thanh toán của các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên TTCK, nhóm tác giả xây dựng mô hình hồi quy dựa trên lượng hóa các nhân tố được đưa vào mô hình. Biến khả năng thanh toán ngắn hạn được đại diện cho khả năng thanh toán. Mô hình được mô tả như sau:

CRi = α0 + α1SIZEi + α2AGEi + α3ASi + α4ROAi + α5ROSi + α6ROEi + α7Ii + α8GDPi + α9DRi + Ei (1)

QRi = β0 + β1SIZEi + β2AGEi + β3ASi + β4ROAi + β5ROSi + β6ROEi + β7Ii + β8GDPi + β9DRi + Ui (2)

MRi = µ0 + µ1SIZEi + µ2AGEi + µ3ASi + µ4ROAi + µ5ROSi + µ6ROEi + µ7Ii + µ8GDPi + µ9DRi + Vi (3)

Trong đó:

CR: khả năng thanh toán nợ ngắn hạn

QR: khả năng thanh toán nhanh MR: khả năng thanh toán tức thời ROA: khả năng sinh lời của tài sản ROE: khả năng sinh lời của VCSH

ROS: khả năng sinh lời của Doanh thu thuần SIZE: quy mô công ty

AGE: thời gian hoạt động của doanh nghiệp AS: cấu trúc tài sản

GDP: tăng trưởng GDP I: lạm phát

DR: tỷ số nợ

Ei, Ui , Vi: các sai số ngẫu nhiên 3.2. Thu thập dữ liệu

Trong nghiên cứu này, nguồn dữ liệu thu thập được chủ yếu là nguồn dữ liệu thứ cấp, được thu thập từ các BCTC hàng năm đã được kiểm Bảng 1. Doanh thu của công ty qua các năm

(triệu đồng)DT

2012 2013 2014 2015 2016

lượngSố Tỷ trọng

(%) Số

lượng Tỷ trọng

(%) Số

lượng Tỷ trọng

(%) Số

lượng Tỷ trọng

(%) Số

lượng Tỷ trọng (%)

DT>851.138 11 35,48 12 38,71 11 35,48 12 38,71 13 41,93

DT<851.138 20 64,52 19 61,29 20 64,52 19 61,29 18 58,07

Tổng 31 100 31 100 31 100 31 100 31 100

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của nhóm tác giả Bảng 2. Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu

Mean Median Max Min Std. Dev. Probability Quan sát

CR 2,014021 1,643529 6,736433 0,612693 1,154655 - 155

QR 1,329972 1,095476 5,169308 0,25829 0,936843 - 155

MR 0,584048 0,382605 4,666839 0,002877 0,709546 - 155

ROA 0,102311 0,094527 0,486947 0,00086 0,067211 - 155

ROE 0,17615 0,162309 0,698003 0,00357 0,102654 - 155

ROS 0,058858 0,044101 0,3035 0,000146 0,044297 - 155

DR 0,416685 0,385419 0,932023 0,09738 0,165303 0,199986 155 SIZE 5,930191 5,824148 7,485277 4,372366 0,509288 0,000003 155

AGE 11,32258 11 24 2 4,143428 0,000211 155

AS 0,650201 0,675795 0,999441 0,182239 0,170392 0,009112 155

LP 4,462 4,74 6,81 0,63 2,147175 0,000075 155

GDP 5,864 5,98 6,68 5,03 0,583559 0,004356 155

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của nhóm tác giả bằng phần mềm EVIEWS 8

(6)

toán đầy đủ của các công ty cổ phần ngành chế biến thực phẩm niêm yết trên TTCK Việt Nam trong khoảng thời gian 2012- 2016. Mẫu nghiên cứu là 31 niêm yết trên TTCK, tương ứng với 155 quan sát, tác giả sử dụng phần mềm Excel, xây dựng các bảng biểu, công thức để tính toán các biến sử dụng trong mô hình.

Dữ liệu trong Bảng 1 cho thấy giai đoạn 2012- 2016 có khoảng 38% các công ty chế biến thực phẩm có quy mô nhỏ hơn quy mô trung bình ngành như ANT, CAP, HAD... Nguyên nhân chủ yếu là do các công ty chịu ảnh hưởng lớn nền kinh tế suy thoái, tình hình sản xuất kinh doanh của các công ty gặp nhiều khó khăn, hàng hóa kém lưu thông nên hàng tồn kho lớn, dẫn đến tăng trưởng doanh thu (GR) đạt được không cao. Bên cạnh đó vẫn có những công ty có quy mô lớn hơn trung bình ngành, dẫn đầu toàn ngành như SAB, TAC, LSS... Nguyên nhân chủ yếu do các công ty này có thời gian hoạt động kinh doanh (AGE) lâu năm, có nhiều kinh nghiệm và nắm bắt được nhu cầu của các đối tác, các khách hàng nên các công ty này đã thu hút được nhiều khách hàng, nhiều hợp đồng trong và ngoài nước nên có được nguồn doanh thu lớn, tăng trưởng doanh thu (GR) cao... Khi có được doanh thu lớn, hiệu quả tài chính ổn định thì công ty có thể duy trì cấu trúc tài sản (AS) hợp lý, tỷ số nợ (DR) vừa phải, không phụ thuộc quá nhiều vào các khoản nợ.

Qua bảng thống kê mô tả những giá trị đã tính toán dựa trên phần mềm EVIEWS, ta có được các giá trị sau: giá trị nhỏ nhất (Min); giá trị cao nhất (Max); giá trị trung bình (Mean) và độ lệch chuẩn (STD) của 31 công ty trong mẫu từ năm 2012 đến năm 2016. Các thước đo để đo lường khả năng thanh toán gồm: khả năng thanh toán nhanh (QR); khả năng thanh toán Nợ ngắn hạn (CR) và khả năng thanh toán tức thời (MR).

Cùng với đó là 9 nhân tố tác động tới khả năng thanh toán đến khả năng thanh toán của các công ty trong mẫu.

3.3. Xử lý dữ liệu

Sau khi thu thập được xử lý các dữ liệu thứ cấp bằng các phương pháp xử lý dữ liệu bao gồm phân loại và sắp xếp dữ liệu một cách khoa học,

sử dụng sơ đồ, bảng biểu để biểu thị, sau đó phân tích, so sánh rồi tổng hợp. Như vậy, các dữ liệu sẽ được lưu trong file dữ liệu tạo ra sự thuận tiện và dễ kiểm soát khi nhập dữ liệu vào phần mềm và chạy mô hình. Nhóm tác giả sử dụng phần mềm Eviews 8.

Khi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy kết hợp với các phương pháp kiểm định khuyết tật khác nhau của các mô hình để đưa ra kết luận cho các giả thuyết về mối quan hệ giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc đối với các công ty chế biến thực phẩm niêm yết trên TTCK.

Mẫu nghiên cứu bao gồm 31 Công ty, vì vậy nhóm tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy dữ liệu bảng cân bằng theo mô hình bình phương nhỏ nhất (OLS). Nhóm tác giả lựa chọn các phương pháp kiểm định các khuyết tật của mô hình, đó là kiểm định mô hình có ý nghĩa thống kê hay thông qua việc đánh giá giá trị thống kê Prob (F-statistic), sử dụng hệ số phóng đại phương sai (Variance Inflation Factors-VIF) để kiểm định đa cộng tuyến, kiểm định Breusch-Pagan-Godfrey để kiểm định tự tương quan và kiểm định Durbin-Watson để kiểm định phương sai sai số thay đổi.

Kiểm định hiện tượng tự tương quan:

Kiểm định của Durbin- Watson (DW) để kiểm định hiện tượng tự tương quan. Kiểm định Durbin- Watson được giới thiệu trong Durbin và Watson (1950). Kiểm định này sử dụng hệ thống Durbin- Watson để xem xét hiện tượng tự tương quan bậc 1 mà giá trị của nó được tính sẵn trong các báo cáo của Eviews.

Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến: kiểm định đa cộng tuyến để kiểm tra tính chính xác của mô hình, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục tốt nhất. Đối với giả thuyết về hiện tượng đa cộng tuyến, nhóm tác giả vận dụng phương pháp xác định hệ số phóng đại phương sai VIF.

Theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2013), Ri2 tăng từ 0,9 đến 1 thì VIF tăng rất mạnh. Khi Ri2 = 1 thì VIF là vô hạn. Nếu hệ số VIF của một biến độc lập nào đó có giá trị vượt quá 10 thì có thể kết luận đã xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa biến độc lập đó với các biến

(7)

độc lập còn lại trong mô hình.

Kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi: Về giả thuyết về phương sai sai số thay đổi, nhóm tác giả kiểm định thông qua kiểm định Breusch-Pagan-Godfrey. Nếu giá trị Prob.Fi thu được sau kiểm định này có giá trị nhỏ hơn 0,1 thì kết luận mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi.

Phương pháp hồi quy tuyến tính: nhóm tác giả sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) để phân tích về mối tương quan, liên hệ giữa các biến nhân tố Tỷ suất sinh lời, Tỷ số nợ, Cấu trúc tài sản, AGE, SIZE, GDP, Lãi suất với khả năng sinh lời của các Công ty trong mẫu để kiểm tra các giả thuyết nghiên cứu.

Phương pháp kiểm định độ phù hợp của mô hình: Hệ số xác định R2 là thước đo đánh giá độ phù hợp của mô hình, mô hình hồi quy đã được xây dựng trên dữ liệu mẫu phù hợp đến mức nào so với dữ liệu. Tuy nhiên, sự phù hợp này chỉ mới thể hiện giữa mô hình xây dựng được với dữ liệu mẫu, còn khi áp dụng cho tổng thể khi các hệ số được ước lượng bằng phương pháp OLS lại không có ý nghĩa. Để kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi quy tổng thể, nhóm tác giả đặt ra giả thuyết:

Ho: R2 = 0, tức là mô hình hồi quy xây dựng được không phù hợp với tổng thể.

H1: R2> 0, tức là mô hình hồi quy xây dựng được phù hợp với tổng thể.

Giá trị của đại lượng F-statistic được sử dụng là miền giá trị cho kiểm định này. Nếu xác suất của F-statistic là Prob (F-statistic) < 0,1 thì bác bỏ giả thuyết Ho, tức là mô hình được coi là phù hợp.

Các phương pháp nghiên cứu trong thiết kế nghiên cứu định lượng mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng như khả năng sinh lời, tỷ số nợ, cấu trúc Tài sản, quy mô công ty, tuổi công ty... với khả năng thanh toán (đại diện là khả năng thanh toán ngắn hạn) thông qua sự hỗ trợ của phần mềm kinh tế lượng Eviews 8.

4. Kết quả và thảo luận

Như đã trình bày trong Phương pháp nghiên cứu, nhóm tác giả tiến hành chạy dữ liệu 3 mô hình:

Mô hình 1- khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (CR) với biến phụ thuộc CR và các biến độc lập: ROA, ROE, AGE, AS và DR.

Mô hình 2- khả năng thanh toán nhanh với biến phụ thuộc QR và các biến độc lập: ROA, ROE và DR.

Mô hình 3- khả năng thanh toán tức thời, với biến phụ thuộc MR là các biến tác động: ROS, SIZE, và DR.

Mô hình khả năng thanh toán Nợ ngắn hạn (CR):

Bảng 3. Các nhân tố tác động đến khả năng thanh toán

Mô hình ROA ROS ROE AS DR SIZE AGE GDP I

CR

Bi 1,627 -0,047 -1,243 2,412 -5,028 -0,201 0,0212 -9,03 1,851 Prob 0,0034 0,925 0,0032 0,0026 0,0025 0,165 0,0667 0,587 0,193

B0 5,2437

QR

Bi 2,591 -0,025 -1,514 0,462 -3,801 -0,305 0,0198 -3,65 1,245 Prob 0,013 0,925 0,0205 0,165 0,0282 0,285 0,334 0,324 0,125

B0 3,1643

MR

Bi 2,635 0.669 -1,635 2,568 -1,903 0,0163 0,0167 -4,64 1,145 Prob 0,254 0,0055 0,835 0,364 0,0025 0,0015 0,462 0,528 0,198

B0 2,0464

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu của nhóm tác giả

(8)

Dữ liệu trong Bảng 3 cho thấy có Prob (p-value) của 5 nhân tố nhỏ hơn mức ý nghĩa 5% và 10%, đó là: tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) với Prob = 0,0034; tỷ suất sinh lời trên VCSH (ROE) với Prob = 0,032; thời gian hoạt động của doanh nghiệp (AGE) với Prob = 0,0667; cấu trúc tài sản (AS) với Prob = 0,0026 và tỷ số nợ (DR) với Prob = 0,0025. Điều này có nghĩa là, các biến trên có ý nghĩa với mô hình khả năng thanh toán ngắn hạn (CR) tại mức ý nghĩa 5% hay ROA, ROE, AGE, AS và DR có tác động tới CR. Qua đó, ta xây dựng được phương trình mẫu của các nhân tố tác động đến khả năng thanh toán ngắn hạn (CR) như sau:

CR = 5,2437 + 1,627×ROA – 1,243×ROE + 0,0212×AGE + 2,412×AS – 5,028×DR + e Qua mô hình trên, ta có thể thấy, ROA có tác động cùng chiều với CR tuân theo nghiên cứu của Isshaq và Bokpin (2009) tại Ghana. Điều này được giải thích vì khi ROA tăng lên thì chứng tỏ doanh nghiệp đạt hiệu quả tài chính tốt, từ đó có thể tự đảm bảo được khả năng thanh toán các khoản nợ của mình. Trong khi đó, ROE tác động ngược chiều đến CR. Có tác động này là do, khi ROE tăng cao là công ty đang đạt được lợi nhuận cao; có nghĩa là doanh nghiệp đang tận dụng nguồn vốn vay nợ để đầu tư; từ đó sẽ kéo theo CR thấp đi. Cũng có tác động ngược chiều với CR là tỷ số nợ (DR) cũng như các nghiên cứu của Ferreira và Vilela (2004) và Gill và Mathur (2011); đây là điều hoàn toàn dễ hiểu vì khi tỷ số nợ tăng cao sẽ đẩy doanh nghiệp vào áp lực trả nợ lớn, nguy cơ mất khả năng thanh toán cao; chính vì thế mà khi DR tăng lên thì CR sẽ giảm xuống. Đối với biến độc lập cuối cùng tác động đến CR là biến AS với tác động cùng chiều lên CR; cấu trúc tài sản đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển của một doanh nghiệp. Với việc duy trì được một cấu trúc tài sản hợp lý và ổn định, doanh nghiệp sẽ thuận lợi trong việc sản xuất kinh doanh; đồng thời mở rộng quy mô.

Mô hình khả năng thanh toán nhanh (QR):

Dữ liệu trong Bảng 3 cho thấy có Prob (p-value) của 3 nhân tố nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, đó là: tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản

(ROA) với Prob = 0,013; tỷ suất sinh lời trên VCSH (ROE) với Prob = 0,0205; tỷ số nợ (DR) với Prob = 0,0282. Điều này có nghĩa là, các biến trên có ý nghĩa với mô hình khả năng thanh toán nhanh (QR) tại mức ý nghĩa 5%, hay ROA, ROE và DR có tác động tới QR. Qua đó, ta xây dựng được phương trình mẫu của các nhân tố tác động đến khả năng thanh toán nhanh (QR):

QR = 3,1643 + 2,591×ROA – 1,514×ROE – 3,801×DR + e

Qua phương trình mẫu của QR, ta có thể thấy:

Tương tự như CR thì ROA cũng có tác động cùng chiều và ROE, DR có tác động ngược chiều đến QR.

Mô hình khả năng thanh toán tức thời (MR):

Dữ liệu trong Bảng 3 cho thấy có Prob (p-value) của 3 nhân tố nhỏ hơn mức ý nghĩa 5%, đó là: tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS) với Prob = 0,0055; quy mô doanh nghiệp (SIZE) với Prob = 0,0015; tỷ số nợ (DR) với Prob = 0,0025. Điều này có nghĩa là, các biến trên có ý nghĩa với mô hình MR tại mức ý nghĩa 5%, hay ROS, AGE và DR có tác động tới MR. Qua đó, ta xây dựng được phương trình mẫu của các nhân tố tác động đến Khả năng thanh toán tức thời (MR) như sau:

MR= 2,0464 + 0.669×ROS + 0,0163×SIZE – 1,903×DR + e

Với phương trình mẫu của mô hình 3: MR chịu tác động cùng chiều của cả 2 nhân tố: ROS và SIZE. Duy nhất chỉ có DR là nhân tố tác động ngược chiều với MR.

- Kiểm định khuyết tật tự tương quan của mô hình hồi quy

Nếu 1< DW< 3: mô hình không có tự tương quan.

Từ kết quả xử lý dữ liệu của tác giả thì hệ số Durbin Watson (DW) thu được là DW1= 2,61254, DW2= 1,162662, DW3= 1,012527 cho thấy mô hình không xảy ra hiện tượng tự tương quan.

- Kiểm định khuyết tật đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy

Phương pháp xác định đa cộng tuyến được nghiên cứu này vận dụng được giới thiệu bởi

(9)

các tác giả Hoàng Trọng & Chu Mộng Ngọc (2008). Nếu hệ số VIF của bất kì một biến độc lập có trong mô hình mà giá trị > 10 thì có thể kết luận rằng đã xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa biến độc lập đó với các biến độc lập còn lại trong mô hình. Khi xem xét kết quả hệ số VIF trên mô hình, ta thấy hệ số VIF của tất cả các biến độc lập đều nhỏ hơn 10, điều đó chứng tỏ mô hình không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập.

- Kiểm định khuyết tật phương sai sai số thay đổi của mô hình hồi quy

Để kiểm định khuyết tật phương sai sai số thay đổi, tác giả sử dụng kiểm định Breusch-Pagan- Godfrey. Mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi trong trường hợp giá trị Prob.Fi thu được sau kiểm định này có giá trị nhỏ hơn 0,1. Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi (Heteroskedasticity Test: Breusch-Pagan- Godfrey) thu được giá trị Prob.F1 = 0,65235;

Prob.F2= 0,56452; Prob. F3= 0,21354. Ta thấy các giá trị Prob.Fj> 0,1. Do đó có thể kết luận mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi.

- Đánh giá sự phù hợp của mô hình hồi quy Giá trị ý nghĩa thống kê Prob1 (F-statistic) = 0,000241< 0,1 cho thấy mô hình hồi quy CR là phù hợp.

Giá trị ý nghĩa thống kê Prob2 (F-statistic) = 0,00024< 0,1 cho thấy mô hình hồi quy QR là phù hợp.

Giá trị ý nghĩa thống kê Prob3 (F-statistic) = 0,000245< 0,1 cho thấy mô hình hồi quy MR là phù hợp.

Hệ số xác định (R2) là hệ số đánh giá sự phù hợp của mô hình. Giá trị của hệ số xác định (R2) cho biết bao nhiêu phần trăm biến thiên trong biến phụ thuộc có thể giải thích bởi mô hình hồi quy. Kết quả hồi quy OLS:

Mô hình CR: Hệ số R2 là 0,683859 có ý nghĩa rằng các nhân tố bên trong doanh nghiệp như Tỷ suất sinh lời ROA và ROE, Hệ số Nợ DR, Cấu trúc tài sản, Tuổi AGE giải thích được 68,3859% sự biến thiên của CR, còn lại 31,6141% sự biến thiên của CR sẽ được giải thích bởi các nhân tố khác.

Mô hình QR: Hệ số R2 là 0,679542 có ý nghĩa rằng các nhân tố bên trong doanh nghiệp như

Tỷ suất sinh lời ROA ROE, Hệ số Nợ DR giải thích được 67,9542% sự biến thiên của QR, còn lại 32,0458% sự biến thiên của QR sẽ được giải thích bởi các nhân tố khác.

Mô hình MR: Hệ số R2 là 0,654823 cho thấy các nhân tố bên trong doanh nghiệp như Tỷ suất sinh lời ROS, Hệ số nợ DR, Quy mô SIZE giải thích được 65,4823% sự biến thiên của MR còn lại 34,5177% sự biến thiên của MR sẽ được giải thích bởi các nhân tố khác.

Các nhân tố còn lại ở đây có thể là các nhân tố bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp không được đưa vào mô hình doanh nghiệp như đòn bẩy tài chính, tốc độ tăng trưởng của doanh thu, chính sách thuế và lãi suất thị trường, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, bối cảnh của ngành chế biến thực phẩm...

Với các kết quả kiểm định mô hình trên, ta thấy được mô hình không có khuyết tật về tự tương quan, không xảy ra sự đa cộng tuyến, không xảy ra hiện tượng phương sai sai số thay đổi, mô hình xây dựng phù hợp. Do đó, kết quả thu được từ mô hình là đáng tin cậy và không vi phạm các giả thuyết cơ bản của phương pháp bình phương nhỏ nhất đối với mô hình đa biến.

Kết quả nghiên cứu các biến độc lập có mối quan hệ thuận chiều gồm: SIZE, ROA, ROS, AS, AGE; trong khi đó ROE và DR có mối quan hệ ngược chiều. Biến GDP và I không có tác động đến khả năng thanh toán.

5. Kết luận

Tình hình tài chính của một doanh nghiệp được thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao thì tình hình tài chính sẽ khả quan và sức khỏe của doanh nghiệp càng cao; và ngược lại. Khả năng thanh toán chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau đòi hỏi nhà quản trị tài chính phải nắm vững để làm rõ nguyên nhân và thực hiện đúng các giải pháp nâng cao khả năng thanh toán.

Nghiên cứu này dựa trên dữ liệu trên BCTC của các doanh nghiệp chế biến thực phẩm sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) và một số phương pháp kiểm định để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của

(10)

các nhân tố đó. Có được kết quả như vậy cũng do tính đặc thù của ngành Chế biến thực phẩm cần có trang thiết bị hiện đại, sử dụng nhiều hàng tồn kho, nhu cầu về sử dụng vốn từ phía nhà cung cấp, ngân hàng ngày càng nhiều;

ngành Chế biến thực phẩm chủ yếu hướng tới thị trường xuất khẩu và đang được coi là trọng điểm trong cơ cấu kinh tế Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các nhân tố tỷ suất sinh lời ROA, ROE, ROS, tỷ số nợ, cấu trúc tài sản, quy mô SIZE, tuổi công ty AGE đều có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán;

trong đó, các nhân tố quy mô doanh nghiệp, tỷ suất sinh lời ROA, cấu trúc tài sản, quy mô SIZE, tuổi công ty AGE có ảnh hưởng cùng chiều; và ngược lại các nhân tố ROE, ROS, tỷ số nợ có ảnh hưởng ngược chiều đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp chế biến thực phẩm. Kết quả của nghiên cứu này có nhiều điểm tương đồng với kết quả của các nghiên cứu trước (qua các biến độc lập như các tỷ suất về hiệu quả tài chính, tỷ suất nợ…), nhưng mức độ ảnh hưởng lại có sự khác nhau do các nghiên cứu trước sử dụng quy mô mẫu khác nhau,

trong các ngành khác nhau, trong các quốc gia khác nhau và trong nền kinh tế với mức độ ổn định khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn có sự khác biệt về biến quy mô (SIZE) mà trong nghiên cứu này thì quy mô doanh nghiệp có tác động thuận chiều (cũng giống như nhiều nghiên cứu khác) nhưng khác so với một số nghiên cứu cho rằng quy mô doanh nghiệp có tác động ngược chiều.

Dựa vào kết quả nghiên cứu này, qua mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập (nhân tố) tác động thuận chiều và ngược chiều đến khả năng thanh toán, nhóm tác giả khuyến nghị các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu cần duy trì quy mô doanh nghiệp hợp lý; mở rộng thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm;

hiện đại hóa dây truyền công nghệ; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay; sử dụng cơ cấu tài sản hợp lý. Kết quả nghiên cứu này là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói chung và các nhà quản trị tài chính nói riêng xem xét đưa ra các quyết định kinh tế đúng đắn nhằm tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp. ■

Tài liệu tham khảo

1. BCTC của các Công ty Chế biến Thực phẩm giai đoạn 2012 - 2016.

2. Lưu Thị Hương và Vũ Duy Hào (2011), Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

3. Nguyễn Văn Công (2009), Giáo trình phân tích kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

4. Nguyễn Quang Dong và TS.Nguyễn Thị Minh (2012), Giáo trình kinh tế lượng, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

5. Nguyễn Minh Kiều (2009), Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê.

6. Nguyễn Năng Phúc (2013), Giáo trình phân tích Báo cáo tài chính, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

7. Nguyễn Đình Thiên, Nguyễn Thị Mai Trâm, Nguyễn Hồng Thu (2014), “Các yếu tố tác động đến khả năng thanh khoản của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam”. Tạp chí của Trường Đại học Thủ Dầu 1, 6(19), 24-32.

8. Thái Văn Đại, Trần Việt Thanh Trúc (2018), “Đánh giá các nhân tố tác động đến tỷ lệ thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam”. Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế thành phồ Hồ Chí Minh.

9. Trần Mạnh Dũng, Phạm Đức Cường & Trần Trung Tuấn (2018), Báo cáo tài chính - Trình bày, Phân tích, Kiểm tra và Kiểm toán, NXB Tài chính.

10. Ahmed, M., Raza, K., (2012), The Optimal Relationship of Cash Conversion Cycle with Firm Size and Profitability, International Journal of Academic Research in Business and Social Sciences, (2)4, 5-12.

11. Almeida, H., Campello, M. and Weisbach, M. (2002), The Demand for Corporate Liquidity: A Theory and Some Evidence.

12. Aziz, A. and Lawson, H.G. (1989), Cash Flow Reporting and Financial Distress Models: Testing of Hypotheses, Financial Management, 55-63.

13. Charitou, M., Lois, P. and Santoso, H. B. (2012), The Relationship Between Working Capital Management and Firm’s Profitability: An Empirical Investigation for an Emerging Asian Country, International Business and Economics Research Journal, (11)8, 839-848.

14. Deloof&Marc, (2001),BelgianIntragroupRelationsandtheDeterminantsofCorporate Liquid Reserves, European Financial Management, (7)3,375-392.

15. Hager (1976), Cash Management and Cash Cycle, Management Accounting, 19-21.

16. Huberman, G. (1984), External Financing and Liquidity, Journal of Finance, (39)3, 895-908.

17. Johnson, J.M., Campbell, D.R. and Wittenbach, J.L. (1980), Problems in Corporate Liquidity, Financial Executive, 44-53.

18. Katerina Lyroudi & Monika Bolek (2012), An Investigation OfThe Companies’ Liquidity And The Factors Affecting It: The

(11)

Case Of Poland, 4-8.

19. Moss, D.J., Stine B. (1993), Cash Conversion Cycle and Firm Size: A Study of Retail Firms, Managerial Finance, (19)8, 25-34.

20. Myers, St.C., Rajan, R.G. (2001), The Paradox of Liquidity, The Quarterly Journal of Economics, 733-771.

21. Nobaneee, H. and AlHajjar, M. (2009a), Working Capital Management, Operating Cash Flow and Corporate Performance, 12

Thông tin tác giả

Trần Mạnh Dũng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đại học Kinh tế quốc dân

Email: manhdung@ktpt.edu.vn Nguyễn Nam Tài, Thạc sĩ Công ty TNHH Kiểm toán ASCO Email: thunter2591@gmail.com

Summary

Determinants Influencing Liquidity of Listed Food Processing Firms on Vietnam Stock Exchange

This research is conducted for evaluating the impact levels of determinants on liquidity of listed food processing firms on Vietnam Stock Exchange. Data were collected from audited financial statements of 31 firms for the period from 2012 to 2016.

This study employs Ordinary Least Squares (OLS) and other tests for measuring impact levels of factors impacting on liquidity. The results show that firm size, return on assets, return on sales, firm duration and asset structure have positive relationships with liquidity. In contrast, return on equity, and debt ratio have negative impacts on liquidity.

Keywords: Determinants, liquidity, food processing.

Dung Manh Tran, Assoc. Prof. PhD.

National Economics University Tai Nam Nguyen, MEc.

ASCO Audit Company

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan