• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm hình ảnh một số tổn thương tuyến ức trên cộng hưởng từ Các đặc điểm hình dạng, đường bờ và kích thước tuyến ức trên phim

1.3. Chụp cộng hưởng từ tuyến ức

1.3.3. Đặc điểm hình ảnh một số tổn thương tuyến ức trên cộng hưởng từ Các đặc điểm hình dạng, đường bờ và kích thước tuyến ức trên phim

CHT cũng tương tự như trên CLVT. Theo độ tuổi, ở trẻ nhỏ, tuyến có hình tứ giác với các cạnh lồi chiếm gần toàn bộ trung thất trước. Ở độ tuổi dậy thì 13 – 19, tuyến có kích thước lớn nhất, hình tam giác hoặc hai thùy với các cạnh thẳng. Ngoài 30 tuổi, tuyến bắt đầu teo nhỏ dần với các cạnh lõm. Về kích thước tuyến, các tác giả nhận thấy trên CHT chiều dày tuyến ức có xu hướng

lớn hơn trên chụp CLVT [38]. Đó là do CHT có độ phân giải tốt hơn CLVT, nên có thể dễ dàng phát hiện các phần tuyến ức bị thâm nhiễm mỡ cũng như phát hiện tốt hơn các đường bờ của tuyến [9],[29].

Hình 1.7. Hình tuyến ức bình thường trên xung T2 [9]. Tuyến hình tam giác, tín hiệu trên T2 không đồng nhất, cao hơn cơ, thấp hơn mỡ.

Hình 1.8. Hình tuyến ức tăng sản trên xung đồng pha và nghịch pha [8].

Tuyến có hình khối nhỏ ngay sau xương ức. Trên hình nghịch pha giảm tín hiệu so với hình đồng pha.

Cường độ tín hiệu của tuyến ức trên phim CHT được so sánh với cơ thành ngực và tổ chức mỡ. Trên T2, cường độ tín hiệu tuyến ức ít thay đổi theo tuổi. Tuyến có cường độ lớn hơn cơ thành ngực và gần bằng mỡ [8],[9].

Trên ảnh T1, cường độ tín hiệu tuyến thay đổi phụ thuộc vào quá trình thâm nhiễm mỡ. Ở người trẻ tuyến có cường độ trung bình, tăng nhẹ so với cơ

thành ngực và có thể phân biệt dễ dàng các thành phần mỡ của trung thất có cường độ tín hiệu cao hơn. Cùng với quá trình thâm nhiễm mỡ, tuyến tăng dần tín hiệu trên T1, đến gần bằng mỡ. Ở người già, do tuyến ức bị thâm nhiễm mỡ toàn bộ nên tăng mạnh tín hiệu trên cả T1 và T2 tương tự như tổ chức mỡ. Tuyến thường đồng nhất tín hiệu trên cả hình T1 và T2 [5],[14].

Tương tự như trên hình chụp CLVT, trên CHT tuyến ức tăng sản thường biểu hiện dạng to lan tỏa, đối xứng và vẫn giữ hình dạng bình thường của tuyến. Tuyến hình tam giác, mũi tên hoặc hai thùy với các cạnh lồi. Kích thước bằng hoặc to hơn tuyến ức bình thường. Để phân biệt một tuyến ức bình thường với tuyến ức tăng sản, bên cạnh các đặc điểm về kích thước, hình dạng, đường bờ đã nêu trong phần CLVT, các tác giả đã gợi ý: tuyến ức tăng sản có thể có các nốt tín hiệu mô mềm nhỏ, đường kính > 7mm mà tuyến ức bình thường không có [9]. ên cạnh hình dạng như tuyến ức bình thường, các nghiên cứu đã cho thấy có khoảng 20% các trường hợp tăng sản nang lympho có dạng một khối mô mềm khu trú [41] và không phân biệt được về mặt hình thái với một khối u tuyến ức. Trong những trường trường hợp này, các chuỗi xung đồng pha và nghịch pha của CHT có giá trị phân biệt bằng cách phát hiện hiện tượng thâm nhiễm mỡ của tuyến. U tuyến ức hoàn toàn không có sự thâm nhiễm mỡ, trong khi tuyến ức bình thường và tăng sản có hiện tượng thâm nhiễm mỡ mạnh ở những người trên 16 tuổi [6],[69].

U tuyến ức là khối u thường gặp nhất ở trung thất trước đối với người lớn tuổi. Các nghiên cứu cho thấy, có tới 50% trường hợp các khối u này gây ra tình trạng nhược cơ trên lâm sàng [4],[8]. Các khối u tuyến ức được phân chia thành nhiều nhóm theo giải phẫu bệnh. Theo tổ chức y tế thế giới WHO, u biểu mô tuyến ức được chia thành các típ A, A , 1, 2, 3 và ung thư.

Trong đó típ A, A , 1 được coi là u nguy cơ thấp, còn típ 2, 3 xếp vào nhóm u nguy cơ cao [54],[55]. Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng, hay sử dụng

phân loại giai đoạn u của Masaoka A hơn cả. Điều này liên quan đến chiến lược điều trị ngoại khoa và tiên lượng diễn biến của bệnh.

Trên hình CHT, các u tuyến ức có cường độ tín hiệu tương tự như tuyến ức bình thường. Trên ảnh T1, các khối u có cường độ tín hiệu trung gian: cao hơn so với cơ thành ngực, nhưng thấp hơn mỡ. Trên ảnh T2, các u có tín hiệu gần bằng mỡ. Xung quanh u thường có vỏ xơ bao bọc. Đó là viền giảm tín hiệu bao quanh khối u. Các vách xơ giảm tín hiệu chia cắt bên trong làm cho khối u có dạng đa thùy. Đa số u tuyến ức có tín hiệu đồng nhất trên T1 và T2. Tuy nhiên do hiện tượng hoại tử, chảy máu, thoái hóa nang, vôi hóa... có khoảng 1/3 các khối u có tín hiệu không đồng nhất [45]. Trên T1 tín hiệu giảm do hoại tử, nang, tăng do chảy máu. Trên T2, tín hiệu tăng do nang, giảm do chảy máu, vôi hóa, các ổ collagen [38],[70]. Sự xâm lấn của khối u liên quan mật thiết đến hình dạng và các cấu trúc đường bờ. Nghiên cứu của Inoue và cộng sự đã chỉ ra rằng các khối u hình tròn, có bao, bờ rõ thường là u típ A [70]. Tomiyama N nghiên cứu 53 bệnh nhân u tuyến ức thấy bờ mịn, hình tròn thường là típ A. Vôi hóa thường gặp ở típ . Đường bờ không xác định hay gặp ở bệnh nhân ung thư [71]. Đối với ung thư biểu mô tuyến, các khối u thường nhiều múi, bờ không đều. Rất hay gặp các vùng hoại tử, xuất huyết trong khối u [9],[54]. U thường xâm lấn rất mạnh vào các thành phần lân cận ở trung thất.

Nang tuyến ức chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các khối u ở trung thất trước. Có tới 40% u tuyến ức có nang [72]. Các nang này có thể bẩm sinh hoặc là u tuyến ức thoái hóa nang. Phân biệt hai dạng tổn thương này có ý nghĩa rất quan trọng trong điều trị ngoại khoa. Các nang bẩm sinh thường tròn, bờ nhẵn, ranh giới rõ. Các nang này dịch đồng nhất, có tín hiệu đặc trưng giảm trên T1 và tăng trên T2 [47]. Các nang do u tuyến ức thoái hóa thường có thành phần dịch phức tạp. Hình T2 vẫn thường tăng tín hiệu, tuy

mức độ có thể không bằng mức tăng tín hiệu ở dịch não tủy. Hình T1 ngược lại, thay đổi từ giảm đến tăng tín hiệu phụ thuộc vào hàm lượng protein trong dịch. Đặc biệt tăng khi có hiện tượng xuất huyết trong nang. Các nang này thường có bờ không đều, thành dày, có nhiều vách xơ. Có thể thấy các nốt dày ở thành nang [9],[33].

A B

C

Hình 1.9. Hình CHT u tuyến ức [9]. Khối u với hình T1 (A) tăng tín hiệu gợi ý các ổ xuất huyết. Hình T2 (B) tăng tín hiệu nghĩ đến các vùng xuất huyết, hoại tử và thoái hóa nang. Sau tiêm gado (C) khối u ngấm thuốc mạnh không đồng nhất.

Tương tự như các u nang, các u mỡ tuyến ức cũng được xác định tương đối dễ dàng trên phim chụp CHT. Đặc trưng của các u này là cường độ tín hiệu cao trên cả T1 và T2 giống như lớp mỡ dưới da. Xen kẽ có các vùng tín hiệu trung gian, biểu thị sự có mặt của các mô mềm. Các u mỡ tuyến ức thường to, có bờ rõ và đè đẩy vào các cấu trúc lân cận. Tuy vậy chúng hoàn

toàn không có hiện tượng xâm lấn [29].