• Không có kết quả nào được tìm thấy

Điều trị

Trong tài liệu ĐỘT BIẾN GEN CỦA BỆNH (Trang 53-56)

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1. BỆNH MUCOPOLYSACCHARIDE

1.1.7. Điều trị

1.1.7.1 Nguyên tắc điều trị

Dựa trên cơ chế bệnh sinh của bệnh bao gồm:

- Hạn chế cơ chất gây độc bằng cách sử dụng các chế phẩm sữa hoặc sản phẩm dinh dưỡng đã hạn chế hoặc loại bỏ các cơ chất gây độc.

- Tăng cường hoạt độ của enzym bị thiếu hụt hoặc thay thế enzym thiếu hụt, bổ xung các co-enzym (các vitamin).

- Cung cấp các sản phẩm thiếu hụt và loại bỏ các chất chuyển hóa trung gian gây độc.

Hiện nay trên thế giới đã có nhiều báo cáo công bố các nghiên cứu điều trị mới bệnh MPS ngoài việc điều trị triệu chứng bao gồm: Ghép tế bào gốc từ tủy xương, liệu pháp enzym thay thế, liệu pháp gen, liệu pháp giảm cơ chất, liệu pháp phân tử nhỏ Chaperone.

1.1.7.2. Điều trị cụ thể

* Liệu pháp enzym thay thế: Áp dụng cho thể MPS I, II, IV, VI. Sau khi được đưa vào cơ thể bằng đường tĩnh mạch, các enzym này sẽ được vận chuyển đến lysosome của các tế bào thay thế hoạt động của các enzym bị lỗi.

- Chỉ định:

+ Trẻ < 2 tuổi nhưng được dự đoán mắc kiểu hình nặng hoặc trung bình.

+ Bệnh nhân >2 tuổi nhưng không có chậm phát triển tinh thần nặng.

+ Điều trị kèm trong giai đoạn đầu và giai đoạn sau của ghép tủy xương.

- Ưu điểm:

+ Việc điều trị enzym thay thế càng sớm càng tốt sẽ hạn chế ứ đọng GAGs trong các cơ quan tổ chức, làm giảm phì đại gan lách, cải thiện vận động của khớp, cải thiện triệu chứng hô hấp.

+ Việc kết hợp giữa enzym thay thế và ghép tế bào gốc tạo máu sẽ đưa đến sự thành công cao cho điều trị MPS [6],[7],[60].

* Liệu pháp ghép tế bào gốc: Cung cấp các tế bào gốc có khả năng tự làm mới, sinh sản nhanh và thay thế biệt hóa đa chiều thành các tế bào của các tổ chức trong cơ thể. Sự thành công là các tế bào bạch cầu đơn nhân có khả năng vượt qua hàng rào máu não tiết ra enzym trong tế bào thần kinh [5],[6].

- Chỉ định:

+ Bệnh nhân MPS týp I (đặc biệt là thể Hurler) dưới 2,5 tuổi.

+ Bệnh nhân MPS týp II, VI được chẩn đoán sớm khi chưa có biến chứng thần kinh và chưa có biến chứng tim mạch.

- Ưu điểm:

+ Thời gian điều trị ngắn (chỉ thực hiện thủ thuật 1 đến 2 lần, thời gian dùng thuốc chống thải ghép ngắn)

+ Cải thiện vận động, giảm phì đại nội tạng, giảm triệu chứng hô hấp, giảm cơn ngừng thở khi ngủ và ngăn chặn quá trình suy thoái thần kinh trung ương.

* Liệu pháp giảm cơ chất: Genistein là isoflavone, loại flavonoids chủ yếu trong đậu nành có tác dụng ngăn chặn việc dẫn truyền tín hiệu qua trung gian yếu tố tăng trưởng biểu bì, điều tiết gen tham gia vào quá trình sinh tổng

hợp GAGs, ức chế tổng hợp GAGs trong nguyên bào sợi da được nuôi cấy của bệnh nhân MPS I, II, IIIA, IIIB [7],[51],[61],[62].

* Liệu pháp gen: Giúp sửa đổi bất thường DNA để sản xuất ra enzym thiếu hụt. Người ta sử dụng các vector khác nhau mang gen thiếu hụt trong các mô hình động vật mắc MPS. Hiện nay đã có nhiều cách chuyển gen khác nhau được thử nghiệm trên chuột mắc MPS II, III, VII [7],[44],[51],[62].

* Liệu pháp phân tử nhỏ CHAPERONE: Enzym lysosome được tổng hợp và bài tiết vào mô lưới nội chất ở tình trạng phần lớn không cuộn xoắn. Hệ thống lưới nội bào kiểm soát theo cách chỉ cho các protein cuộn xoắn đúng được vận chuyển đến cơ quan Golgi để tiếp tục trưởng thành.

Các enzym bị cuốn nhầm sẽ nhanh chóng bị proteasomes làm suy biến. Các

"chaperones" liên kết với protein mới được tổng hợp làm gia tăng sự ổn định của protein. Những protein đột biến đã được chaperoned hóa vận chuyển được ra khỏi lưới nội chất, thúc đẩy việc xử lý và dẫn đường các enzym đột biến tới lysosome. Kết quả là enzym vẫn có thể thực hiện chức năng của mình dù ban đầu bị cuốn nhầm do đột biến sai nghĩa. Các chaperone có kích thước rất nhỏ có thể vượt qua hàng rào máu não, do đó chaperone có hiệu quả trong điều trị MPS III [7],[44],[51],[62].

* Điều trị triệu chứng: Là biện pháp quan trọng cần tiến hành sớm với tất cả các thể, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân đặc biệt đối với bệnh nhân chưa được điều trị liệu pháp enzym thay thế hay ghép tế bào gốc.

- Điều trị hỗ trợ: Nội khoa và ngoại khoa.

- Gây mê : Bệnh nhân MPS dễ tử vong đột ngột trong phẫu thuật do gây mê. Nguyên nhân thường do: Cổ ngắn lại biến dạng, tắc nghẽn đường hô hấp trên do tăng tiết dịch (do viêm nhiễm liên tục) hay do

lắng đọng các chất trung gian của quá trình chuyển hóa, đặt nội khí quản khó, có thể phải mở khí quản, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, cơn ngừng thở khi ngủ, bệnh van tim, não úng thủy có thể gây ức chế trung khu hô hấp dẫn đến ngừng thở. Các bệnh nhân MPS khi cần phẫu thuật phải được tiến hành ở các bệnh viện lớn nơi có nhiều chuyên gia về các lĩnh vực MPS [63].

- Phục hồi chức năng: Nên được bắt đầu sớm, tập cử động tất cả các khớp.

Trong tài liệu ĐỘT BIẾN GEN CỦA BỆNH (Trang 53-56)