• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHỨC NĂNG SINH LÝ MŨI XOANG VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.3. CHỨC NĂNG SINH LÝ MŨI XOANG VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG

- Các bể nước não tủy trên yên: Là các khoang nước não tuỷ dưới nhện, hình thành giữa vỏ não sát nền sọ và trên yên.

- Vùng trên yên: Có các động mạch cảnh trong, não trước, não giữa, não sau, thông trước và thân nền. Có các dây thần kinh sọ não: II, III, IV, V1, V2, V3 và dây VI. Các khối u tuyến yên thường phát triển lấn lên vùng trên yên, khi lấy khối u vùng này thì các thành phần trên có thể bị tổn thương.

1.3. CHỨC NĂNG SINH LÝ MŨI XOANG VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG

Chức năng sinh lý của các xoang cạnh mũi được đảm bảo qua vai trò:

thông khí, dẫn lưu và bảo vệ. Sự thông khí của xoang liên quan đến hai yếu tố là kích thước của lỗ thông xoang và đường dẫn lưu vào hốc mũi. Sự dẫn lưu của xoang phụ thuộc vào số lượng, thành phần, độ quánh của dịch tiết, hoạt động của lông chuyển, tình trạng lỗ thông tự nhiên của xoang, đặc biệt là tình trạng phức hợp lỗ ngách.

Khi quá trình thông khí, dẫn lưu và bảo vệ của xoang bị rối loạn thì sẽ dẫn đến viêm xoang [42].

1.3.2. Một số phương pháp đánh giá chức năng sinh lý mũi xoang 1.3.2.1. Đo thông khí mũi

Đo bằng gương Glatzel.

Gương Glatzel là một tấm kim loại mạ kền sáng bóng trên đó có kẻ nhiều đường vòng cung đồng tâm cách nhau 1cm và ở chính giữa có một đường thẳng chia ranh giới giữa hai mũi. Khi thở ra hơi nước sẽ làm mờ gương.

Cách đo: để gương sát cửa mũi và song song với hai lỗ mũi trước, bệnh nhân hít sâu rồi thở đều ra hai mũi và ghi nhận kết quả vệt mờ theo kích thước đã có trên gương. Tùy theo mức độ gương mờ để đánh giá chức năng thông khí của mũi.

Đo cường độ đỉnh khi hít vào (PNIF: Peak nasal inspiration flow) Phương pháp này đo lưu lượng đỉnh khí đi qua mũi khi hít vào tối đa, đơn vị tính bằng lít/phút. Đây là một xét nghiệm không xâm lấn, dễ làm và thường dùng đánh giá chức năng thông khí mũi.

Đo khí áp mũi (Rhinomanometry)

Là một xét nghiệm đánh giá chức năng thông khí và đo được áp lực luồng khí qua mũi. Phương pháp này đánh giá mối quan hệ giữa trở kháng mũi với dòng khí qua mũi trong quá trình thở qua từng bên hốc mũi. Kết quả đo được biểu diễn trên biểu đồ dạng đường cong tỉ lệ áp suất - thể tích. Khi

hốc mũi bị hẹp lại, trở kháng tăng khiến áp suất cần tạo ra để đảm bảo luồng không khí qua mũi phải tăng lên theo. Khi đó, đường cong tỉ lệ sẽ tiến gần trục áp suất (trục hoành) hơn bình thường.

Đo trở kháng mũi bằng sóng âm (Acoustic rhinometry)

Sóng âm được truyền vào hốc mũi, được phản hồi lại và sau đó sẽ được chuyển thành các tín hiệu kỹ thuật số. Từ đó sẽ thiết lập nên biểu đồ sóng âm mũi (Rhinogram). Phương pháp này cho phép đánh giá hình dạng khoang mũi, mức độ ngạt mũi, vị trí hẹp, hiệu quả cải thiện sau phẫu thuật cũng như điều trị nội khoa.

1.3.2.2. Đánh giá chức năng khứu giác - Đo chức năng khứu giác chủ quan

 Bộ thử mùi UPSIT.

Năm 1980, Doty và cộng sự thuộc trung tâm khứu giác và vị giác, trường đại học Pensylvania đã phát minh ra bộ thử chức năng khứu giác mang tên: University of Pennsylvania Smell Identification Test (UPSIT) [57]

Nguyên lý bộ thử UPSIT là dùng 40 mùi khác nhau để đánh giá mức độ rối loạn ngửi. Bộ thử gồm 40 câu hỏi lựa chọn, người bệnh sẽ lựa chọn đáp án tương ứng với mùi được ngửi. Tuy nhiên do sự khác biệt về văn hóa, thói quen giữa các nước, bộ câu hỏi này cần được biến đổi cho phù hợp với người dân các nước khác nhau trên thế giới. Tại Việt nam hiện chưa có phiên bản của bộ test này.

 Test ngưỡng ngửi với Phenyl Ethyl Alcohol (PEA).

Bộ test gồm 12 dung dịch Phenyl Ethyl Alcohol pha với nồng độ giảm dần, được đánh dấu từ 0 đến 12. Theo Doty [58] có thể dùng phương pháp tăng dần nồng độ hoặc phương pháp sử dụng bước đơn để đánh giá ngưỡng khứu giác.

Phương pháp tăng dần nồng độ chất kích thích: Được thực hiện bằng cách cho bệnh nhân chỉ tiếp xúc ngửi các lọ PEA, các lọ có nồng độ tăng dần (từ -6 log  - 5,5log  - 5log -4,5log ...) và xác định ngưỡng nồng độ PEA BN có thể phát hiện.

Phương pháp bước đơn: Với mỗi lượt test, bệnh nhân được ngửi hai dung dịch, một là dung dịch PEA, dung dịch còn lại là dầu nguyên chất không mùi và bệnh nhân phải xác định đâu là dung dịch PEA. Bác sĩ sẽ chuyển sang lọ PEA có nồng độ cao hơn khi BN không xác định được dung dịch PEA hoặc lọ PEA có nồng độ thấp hơn khi BN phát hiện được chính xác dung dịch PEA.

 Đo chức năng khứu giác khách quan

 Đo điện khứu giác đồ (Electro-Olfactogram: EOG). Năm 1969, Osterhammel là người đầu tiên công bố bản điện khứu giác đồ ở người [59]. Điện khứu giác đồ là phương pháp thăm dò chức năng hoạt động sinh lý của tế bào biểu mô khứu giác, thông qua việc ghi lại các điện thế phát sinh trong các tế bào biểu mô khứu giác trong quá trình dẫn truyền các xung động thần kinh khi được kích thích mùi. Điện cực được đặt ở vùng biểu mô khứu giác để đo đáp ứng thần kinh khứu giác.

 Đo đáp ứng thần kinh khứu giác (Evoked Olfactive Response). Điện thế gây nên là điện thế đáp ứng của não bộ với các kích thích đặc hiệu. Đây là tổng các điện thế sau synap sinh ra khi một số lượng lớn neuron thần kinh bị kích thích.

1.4. BỆNH HỌC U TUYẾN YÊN