CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH
1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh (HQKD) là một trong những quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp (DN), đây làm mục tiêu và là động lực mà tất cả các DN theo đuổi. Do đó đã có rất nhiều các tài liệu, các nghiên cứu đề cập đến HQKD, tùy vào góc độ nghiên cứu mà các tác giả đưa ra những quan điểm khác nhau về HQKD. Tuy nhiên, khi NCS hệ thống các quan điểm về HQKD của các nhà khoa học trong nước và quốc tế thì nhận thấy rằng các quan điểm này đều xoay quanh vấn đề là đánh giá khả năng sử dụng các nguồn lực đầu vào nhằm đạt được kết quả và mục tiêu của DN. Cụ thể như sau:
Trong cuốn Kinh tế học, tác giả Paul A Samuelon [46] cho rằng “Hiệu quả tức là sử dụng một cách hữu hiệu nhất các nguồn lực của nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu mong muốn của con người”. Quan điểm này cho thấy, muốn đánh giá HQKD thì cần đánh giá việc sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh là tiết kiệm hay lãng phí. Tuy nhiên để đánh giá sử dụng thế nào là “hữu hiệu nhất” vẫn còn khá trừu tượng, các doanh nghiệp rất khó có thể định lượng được vì nó chỉ mới đề cập đến khả năng vận dụng nguồn lực đầu vào chứ chưa đánh giá kết quả đầu ra, cũng như mối quan hệ tương quan giữa đầu vào và đầu ra. Cũng có quan điểm tương tự nhóm tác giả Nguyễn Sĩ Thịnh, Nguyễn Sĩ Thiệp và Nguyễn Kế Tuấn [30] cho rằng “Hiệu quả lao động xã hội được xác định bằng cách so sánh các đại lượng kết quả hữu ích cuối cùng thu được với lượng chi phí lao động xã hội” các tác giả chỉ đề cao vấn đề kết quả thu được, mà không quan tâm tới chất lượng của hoạt động sản xuất. Do vậy, theo NCS quan điểm đánh giá HQKD như trên chưa thực sự phù hợp.
Trong cuốn Basic econometrics [67], tác giả Gujaratu Damodar đã đưa ra quan điểm về cách xác định HQKD là so sánh tương quan giữa kết quả đạt được bổ sung (phần tăng thêm) và chi phí tiêu hao bổ sung. Ở đây có thể thấy, tác giả đã
21
đề cập đến bản chất của hiệu quả là trình độ sử dụng chi phí, tuy nhiên theo NCS việc xem xét sự bù đắp chi phí bỏ ra tăng thêm trong quá trình sản xuất kinh doanh là chưa đủ để đánh giá HQKD. Ở Việt Nam các tác giả Ngô Đình Giao, Lưu Bích Hồ, Trần Văn Thao trong các nghiên cứu của mình [26], [25], [69] đã cho rằng hiệu quả là quan hệ tỉ lệ hoặc hiệu số giữa kết quả với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cũng giống như quan điểm trên, các tác giả cũng đã đề cập đến trình độ sử dụng chi phí như để đánh giá HQKD. Nhưng theo NCS quan điểm này mới chỉ đề cập đến chi phí thực tế phát sinh mà bỏ qua mối liên hệ giữa nguồn lực đầu vào của chi phí và chi phí đó. Đơn cử như chi phí về lao động, khi xét hiệu quả lao động thì chi phí thực tế là số ngày công, giờ công, tiền lương…
nhưng nguồn lực của chi phí này lại được thể hiện qua số lượng lao động. Qua đây có thể thấy, các tác giả nêu trên đã không xem xét mối quan hệ nội tại của các yếu tố khi trong quá trình sản xuất kinh doanh khi đánh giá HQKD. Mỗi yếu tố luôn không ngừng biến động, các yếu tố sẵn có và tăng thêm cùng thực hiện quá hoạt động sản xuất kinh doanh, và cùng tác động làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Do vậy, khi phân tích HQKD chúng ta cần xem xét tổng thể tất cả các yếu tố tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác giả Nguyễn Văn Tạo thì cho rằng “HQKD không chỉ là so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả đầu ra; HQKD được hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu thì không thể có hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu ta cần phải sử dụng nguồn lực như thế nào” [45]. Tác giả quan tâm đến việc thực hiện mục tiêu của DN, nếu các mục tiêu đặt ra không được hoàn thành thì không thể nói DN hoạt động hiệu quả. Do đó, có thể thấy HQKD là chỉ tiêu so sánh giữa mục tiêu hoàn thành và nguồn lực sử dụng. Quan điểm trên được tác giả Huỳnh Đức Lộng [22] đưa ra “Hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã hội là phạm vi kinh tế phản ánh yêu cầu tiết kiệm thời gian lao động xã hội trong việc tạo ra kết quả hữu ích được xã hội công nhận. Nó được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu đặc trưng, xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả đạt được về mặt kinh tế với chỉ tiêu phản ánh chi phí bỏ ra hoặc nguồn lực được huy động vào sản xuất”. Có thể dễ dàng nhận thấy quan điểm của tác giả về hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả hữu ích được xã
22
hội công nhận với các chi phí hoặc nguồn lực bỏ ra để thực hiện, chứ không chỉ quan tâm đến kết quả thu được.
Theo quan điểm của tác giả Ngô Đình Giao [26] thì “HQKD của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa cuối cùng được thể hiện ở trình độ tăng lợi ích kinh tế của xã hội và sự phát triển toàn diện của các thành viên trong xã hội đó dựa trên cơ sở khai thác và sử dụng đầy đủ, hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực sản xuất của xã hội”. Theo NCS, với quan điểm của mình tác giả nhấn mạnh đến hiệu quả xã hội mà DN mang lại dựa trên HQKD của mình. Mỗi DN khi kinh doanh hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhưng nếu DN chỉ chạy theo mục tiêu lợi nhuận của mình mà không quan tâm đến hiệu quả chung của xã hội như: khai thác triệt để nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường…thì sẽ ảnh hưởng đến HQKD và sự phát triển lâu dài của DN. Tác giả Trần Thị Thu Phong [58] cho rằng “HQKD là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của DN vào kinh doanh sao cho hao phí nguồn lực là thấp nhất nhưng mang lại lợi ích cao nhất. Lợi ích mang lại không chỉ cho bản thân DN mà còn cho cả xã hội”. Tác giả Đỗ Huyền Trang [19] cho rằng “HQKD là một phạm trù kinh tế được biểu hiện bằng hệ thống chỉ tiêu kinh tế đặc trưng thiết lập trên cơ sở so sánh tương quan giữa kết quả đầu ra với chi phí hoặc yếu tố đầu vào, qua đó phản ánh trình độ sử dụng chi phí hoặc các yếu tố đầu vào nhằm đặt được kết quả cao nhất trong điều kiện kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội”, tác giả Hà Thị Việt Châu [20] cho rằng “HQKD của DN trong nền kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế nhằm phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của DN nhằm đạt được các mục tiêu hoạt động đề ra. HQKD được đo lường thông qua phân hệ chỉ tiêu tài chính và phân hệ chỉ tiêu phi tài chính””, tác giả Nguyễn Trọng Kiên [41] cho rằng “HQSXKD của DN là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ khai thác và sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất, kinh doanh, với hao phí nguồn lực bỏ ra ít nhất mà đạt được kết quả cao nhất”
Có thể thấy, trong luận án của mình các tác giả nêu trên đều nên quan điểm về HQKD là tương quan giữa việc sử dụng các nguồn lực đầu vào với kết
23
quả đầu ra của doanh nghiệp. Nó được coi là tối ưu khi chi phí bỏ ra thấp nhất nhưng kết quả thu được cao nhất.
Từ những tổng hợp và phân tích ở trên NCS cho rằng: “HQKD là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực và hiệu quả sử dụng các nguồn lực đó nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp và cho xã hội”. Với quan điểm này, HQKD được biểu hiện thông qua so sánh tương quan giữa các nguồn lực bỏ ra với những lợi ích thu lại được. Đồng thời, xét trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể, HQKD của doanh nghiệp phải luôn luôn gắn liền với hiệu quả xã hội.