• Không có kết quả nào được tìm thấy

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.9. Điều trị đích trong ULAKH trẻ em

Rituximab đang được nghiên cứu ở trẻ em với bệnh có bộc lộ CD20, bao gồm u lympho Burkitt, u lympho tế bào B lớn lan toả. Rituximab đơn thuần hay kết hợp với hóa chất chuẩn cho kết quả khích lệ.

Theo Attias D (2008), nghiên cứu 19 trẻ bị ULAKH tế bào B trưởng thành/bạch cầu lympho cấp tế bào B cho thấy Rituximab có hiệu quả trong những trẻ em có ULAKH tế bào B độ ác tính cao, nặng trước điều trị. 79%

BN có đáp ứng, 63% BN vẫn sống thoái lui hoàn toàn tại thời điểm theo dõi 5 đến 48 tháng. Chỉ có 1 BN không đáp ứng với Rituximab. Việc sử dụng Rituximab có thể được điều chỉnh trong một nghiên cứu tiến cứu có đối chứng giảm liều hóa trị [107].

Shabbat S (2009) báo cáo 2 trẻ chẩn đoán ULAKH tế bào B lớn lan tỏa được điều trị Rituximab, 1 trẻ dùng rituximab đơn trị liệu, 1 trẻ dùng kết hợp với phác đồ CHOP. ĐƯHT ở cả hai trẻ [108].

Bilié E (2010) báo cáo kết quả điều trị 07 trẻ em chẩn đoán ULAKH CD 20 (+) điều trị theo phác đồ NHL - BFM 95 và rituximab ngày thứ 5.

ĐƯHT ở cả 7 BN, trong đó 6 BN duy trì được ĐƯHT ít nhất 12 tháng sau khi kết thúc hóa trị. Vì số lượng BN quá nhỏ nên cần theo dõi trên số lượng trẻ em lớn hơn để xác định vai trò của Rituximab trên trẻ em [109].

Meinhardt A và cs (2010) tiến hành nghiên cứu phase II 136 BN nhằm đánh giá hoạt tính và độ dung nạp Rituximab từ 4/2004 đến 8/2008. Độc tính độ 3/4 liên quan đến Rituximab là tình trạng chung: mệt mỏi 13%; quá mẫn 7%;

nhiễm trùng 3%; tăng men gan glutamic-oxaloacetic transaminase/glutamic-pyruvic transaminase 8%; không có tai biến thoát mạch; không có tử vong liên quan đến độc tính. 49 BN không đánh giá đáp ứng do rút khỏi nghiên cứu. Trong 87 BN đánh giá được, 36 BN đáp ứng. Kết luận Rituximab có hoạt tính như một đơn chất trong ULAKH tế bào B trẻ em mặc dù tỷ lệ đáp ứng thấp hơn so với yêu cầu trong kết hoạch nghiên cứu phase II [110].

Theo Kumar R và cs (2011), 6 trẻ em được chẩn đoán ULAKH thể nang được điều trị bằng Rituximab kết hợp phác đồ CHOP thì có 5 trẻ duy trì được thoái lui với thời gian theo dõi trung bình là 31 tháng [111].

J. Kimble Frazer và cs (2012) nghiên cứu hiệu quả và tính an toàn khi thêm Rituximab vào hóa trị FAB nhóm C không có xạ trị TKTW trên 15 BN trẻ em ULAKH Burkitt thâm nhiễm TKTW. Kết quả là 14/15 (93%) BN sống không bệnh. Nghiên cứu kết luận: Rituximab thêm vào hóa chất phác đồ FAB nhóm C có dung nạp tốt. Kết cục của 15 BN này gợi ý việc thêm Rituximab vào phác đồ FAB nhóm C không có xạ trị TKTW có lẽ giảm tái phát toàn thân. Cần phải nghiên cứu mẫu ngẫu nhiên lớn hơn [112].

Epratuzumab, kháng thể đơn dòng kháng CD22, có thời gian bán huỷ trong huyết thanh khá dài (23 ngày) nên duy trì được tác dụng chống u. Có một tỷ lệ lớn u lympho ác tính tế bào B và bệnh bạch cầu lympho cấp tế bào tiền B bộc lộ CD22. Ở trẻ em bị bạch cầu lympho cấp tế bào tiền B tái phát, epratuzumab kết hợp với phác đồ hóa chất chuẩn đã cho đáp ứng khá tốt.

Alemtuzumab, một kháng thể đơn dòng chống CD52 rất có hoạt tính với u lympho tế bào B và bệnh bạch cầu lympho mạn tế bào B. CD52 bộc lộ ở khá nhiều trẻ em bị bệnh bạch cầu lymphô cấp. Alemtuzumab đang được đánh giá ở trẻ em bị bạch cầu lympho cấp tái phát.

Để tăng cường chức năng hiệu lực của kháng thể đơn dòng, việc gắn kết với thuốc, chất độc và các nguyên tử phóng xạ đã được nghiên cứu tích cực. Doxorubicin, Melphalan, Methotrexate và Vinca alcaloid khi gắn với kháng thể đơn dòng đã cho kết quả lâm sàng hạn chế. Thuốc ức chế tyrosine kinase (cụ thể là Genistein) có thể được kết hợp với kháng thể đơn dòng (cụ thể là kháng CD19) nhắm vào các bệnh ác tính dòng lympho.

Kháng thể đơn dòng được gắn các chất độc từ thảo mộc hoặc vi khuẩn.

Các chất độc khi vào được trong tế bào sẽ ức chế tổng hợp protein.

Brentuximab vedotin (Adcetris) là một KT kháng CD30 được gắn với một hóa chất. Một số tế bào u lympho có CD30 trên bề mặt. Kháng thể hoạt động như một tín hiệu, mang thuốc hóa chất đến các tế bào u lympho.

Brentuximab có thể được sử dụng để điều trị ULAKH tế bào lớn bất thục sản tái phát sau điều trị. Đến nay chủ yếu dùng cho người lớn, nhưng vẫn còn đang nghiên cứu trên trẻ em.

Kháng thể đơn dòng có khả năng là đích nhắm của điều trị phóng xạ miễn dịch (radioimmunotherapy-RIT). Đáp ứng với RIT hiếm khi thấy ở các u đặc mà thường ở u lymphô và bệnh bạch cầu. Mặc dù I131 là đồng vị được sử dụng nhiều nhất, Y90 và Cu67 có thể có nhiều đặc tính vật lý tốt hơn. Mặc dù nhiều khối u ở trẻ em nhạy cảm với phóng xạ, kinh nghiệm về RIT ở trẻ em còn khá ít.

Ibritumomab là kháng thể đơn dòng kháng CD20 gắn với Y90 đã được chấp thuận sử dụng trên u lympho tế bào B thể nang ở người lớn. Erin Cooney-Qualter và cs (2007) đã có nghiên cứu pha I trên 5 trẻ em bị ULAKH CD20 dương tính tái phát/kháng điều trị cho thấy không có độc tính nghiêm

trọng xảy ra với liều 5 mCi. Tositumomab, kháng thể kháng CD20 gắn I131 được nghiên cứu và ứng dụng trên người lớn nhiều hơn ở trẻ em.

Interferon- và - có thể hoạt hoá chức năng của tế bào diệt tự nhiên (NK) tế bào đơn nhân và có hoạt tính trên lâm sàng chống một số ung thư ở người lớn trong đó có ULAKH. Tuy nhiên, các thử nghiệm interferon ở trẻ em còn hạn chế. Interferon- kết hợp acid cis-retinoic có thể cho thoái lui lâu dài ở trẻ bị u lympho tế bào lớn bất thục sản tái phát. Trẻ em với bệnh bạch cầu lympho cấp tế bào T và ULAKH loại tế bào T kháng với điều trị cũng có một tỷ lệ nhỏ đáp ứng với interferon- 2B.