• Không có kết quả nào được tìm thấy

Vài nét hệ thống và chương trình đào tạo bác sĩ trên thế giới

Chương 1. TỔNG QUAN

1.6. Thực trạng về hệ thống và chương trình đào tạo bác sĩ

1.6.1. Vài nét hệ thống và chương trình đào tạo bác sĩ trên thế giới

động thực hiện các công việc quản lý của mình và nhất là chưa thể hiện sự chịu trách nhiệm về chất lượng GDĐH. Tính chịu trách nhiệm chưa cao thể thiện ở sự công khai với nhà nước, cán bộ, SV và xã hội những hoạt động của nhà trường theo các quy trình cơ chế được xây dựng và pháp lý hóa [84].

Chưa có quy định riêng cho đào tạo ngành đặc thù, trong đó có y đa khoa.

Tính đến ngày 31/3/2015, hầu hết các trường đại học y đã thành lập đơn vị chuyên trách về ĐBCLGD và đã có 14 trường ĐH, học viện Y Dược trong tổng số 194 trường đại học, học viện nộp báo cáo tự đánh giá theo bộ tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT cho Cục Khảo thí và KĐCLGD [85], song hiện chưa có trường đại học y nào được đánh giá ngoài và chưa có CTĐT y khoa nào được kiểm định chất lượng. Có thể thấy KĐCLGD vẫn còn là một vấn đề mới đối với các trường ĐH Y ở Việt Nam.

Đến năm 2014, Bộ Y tế đã thành lập Hội đồng đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo nhân lực y tế [86] với nhiệm vụ tư vấn, giám định, phản biện giúp Bộ trưởng Bộ Y tế các vấn đề sau: Các hoạt động đảm bảo chất lượng, hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo nhân lực y tế; Xây dựng và thẩm các qui định, qui trình chi tiết trong đánh giá chất lượng giáo dục các cơ sở đào tạo nhân lực y tế; Xây dựng các tiêu chí, các bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục đối với các chương trình đào tạo nhân lực y tế. Điều đó thể hiện sự quyết tâm vào cuộc của Lãnh đạo Bộ Y tế đối với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục nhân lực y tế trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

tại những quốc gia kém phát triển. Nơi có nhiều trường y khoa nhất là Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Âu, châu Mỹ La Tinh và vùng Caribean. Ngược lại, tại Trung Á, Trung và Đông Âu, và châu Phi cận Sahara có rất ít các trường đại học y khoa. Đặc biệt, khu vực châu Phi hoặc vùng cận Sahara chỉ có một hoặc không có trường nào [87]. Hệ thống đào tạo y khoa trên thế giới vô cùng đa dạng (Hình 1.1). Thậm chí trong cùng một quốc gia, hệ thống đào tạo và chương trình đào tạo tại các trường đại học cũng rất khác nhau. Có thể chia thành ba nhóm sau [88]:

- Nhóm 1: đầu vào là học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, thời gian đào tạo từ 5~7 năm. Nhóm này có các quốc gia như: Đức, Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Scotland và Malaysia. Nhật Bản cũng áp dụng hệ thống này.

- Nhóm 2: chỉ tiếp nhận đầu vào là sinh viên tốt nghiệp đã có bằng và đào tạo trong 4 năm. Mỹ, Canada là các quốc gia thuộc nhóm này.

- Nhóm 3: kết hợp nhóm 1 và 2 tiếp nhận học sinh tốt nghiệp phổ thong trung học và sinh viên tốt nghiệp. Úc, Anh, Ireland, Hàn Quốc, Singapore là các quốc gia thuộc nhóm này.

Tóm tắt hệ thống đào tạo y khoa nhóm 1

Tóm tắt hệ thống đào tạo y khoa nhóm 2

Hình 1.1. Hệ thống đào tạo y khoa nhóm 1 và nhóm 2

Về độ tuổi nhập học và phương pháp xét duyệt đầu vào của mỗi nhóm cũng có đặc thù riêng [88]:

Nhóm 1, các trường đào tạo y khoa tiếp nhận đầu vào là học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học 18 - 19 tuổi (Hình 1.2). Để được xét duyệt đầu vào, học sinh phải trình điểm số đạt được tại trường phổ thông và kết quả các kì thi chung trên toàn quốc. Thi đầu vào của các trường y tại Nhật Bản không phổ biến. Còn ở một số quốc gia khác như Hà Lan, Bỉ, Malaysia, chính phủ quyết định trường mà học sinh tốt nghiệp phổ thông có thể nộp đơn xét đầu vào. Thời gian đào tạo 5~7 năm, Scotland: 5 năm. Malaysia: 6 năm. Nhật Bản, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha: 7 năm. Mục đích đào tạo chính của các trường nhóm 1 là đào tạo lâm sàng. Khi tốt nghiệp các sinh viên y khoa được trao bằng cử nhân y khoa.

Nhóm 2, các trường đào tạo y khoa chỉ tiếp nhận đầu vào là SV tốt nghiệp từ các trường đại học/cao đẳng (college) đào tạo chuyên ngành khác ngoài y khoa (Hình 1.2). SV đầu vào thường từ 22~24 tuổi. Để được xét duyệt đầu vào, các sinh viên này phải tham gia kỳ thi đầu vào của hiệp hội/các trường y khoa (MCAT) và trình điểm số học tập tại trường đại học/cao đẳng mà họ đã tốt nghiệp. Ngoài ra, phỏng vấn cá nhân cũng được thực hiện nhằm đánh giá động lực, quyết tâm theo học ngành y. Sau khi được chấp nhận, các sinh viên sẽ tham gia chương trình đào tạo y khoa trong 4 năm, khi tốt nghiệp nhận bằng cử nhân y khoa. Một số trường khuyến khích sinh viên sau khi tốt nghiệp tham gia vào các khóa học thạc sĩ, tiến sĩ để trở thành các nhà khoa học trong lĩnh vực y khoa.

Nhóm 3, các trường đào tạo y khoa tiếp nhận đầu vào là học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học và sinh viên tốt nghiệp đại học/cao đẳng (college) (Hình 1.2). Tại các quốc gia thuộc nhóm 3 có ba nhóm trường. Một số trường chú trọng học sinh tốt nghiệp phổ thong, hoặc chú trọng sinh viên tốt nghiệp

đại học/cao đẳng. Một số trường khác chú trọng cả hai đối tượng trên. Các khóa đào tạo được tiến hành song song trong cùng một trường.

Khung đào tạo y khoa nhóm 1

Khung đào tạo y khoa nhóm 2

Khung đào tạo y khoa nhóm 3

Hình 1.2. Khung đào tạo y khoa nhóm 1, 2 và 3 Chương trình đào tạo bác sĩ trên thế giới

Chương trình giảng dạy trong trường đại học y khoa bao gồm khoa học cơ bản, y học cơ sở và y học lâm sàng. Tại các trường nhóm 1, SV học các môn triết học, y đức, toán, vật lý, hóa học, sinh học, ngoại ngữ v.v… trong khóa học tiền y khoa 0,5~2 năm. Sau đó, SV sẽ học các môn y học cơ sở, như giải phẫu, mô phôi, lý sinh, hóa sinh, vi khuẩn/virus, bệnh học, dịch tễ, y tế cộng đồng, sinh lý, dược v.v… trong khoảng 1,5~2 năm. Cuối cùng, SV được học về y học lâm sàng, như nội, ngoại, nhi khoa, sản phụ khoa, nhãn khoa, tai-mũi-họng v.v… từ 2~3 năm, bao gồm cả học lâm sàng với giáo viên

hướng dẫn. Tại các trường tuyển sinh từ các SV đã tốt nghiệp đại học/cao đẳng, SV không cần thiết phải tham gia khóa học tiền y khoa, bởi vì đã được học các môn này ở trường trước. Trong 4 năm học tại các trường y khoa nhóm 2, SV được học về y học cơ sở trong 2 năm và y học lâm sàng trong 2 năm. Tuy nhiên, gần đây hầu hết các trường nhóm 2 đều giới thiệu khóa học lồng ghép giữa y học cơ sở và y học lâm sàng [88].

1.6.2. Thực trạng hệ thống và chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa ở Việt