• Không có kết quả nào được tìm thấy

về truyền thống của Hải quân NDVN

Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "về truyền thống của Hải quân NDVN"

Copied!
16
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN TRONG THỜI KỲ MỚI (GIAI ĐOẠN 2011 - 2015)

MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU

- Tuyên truyền cho các đối tượng trong và ngoài Quân đội, nhất là học sinh lớp 12 các trường THPT, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng nâng cao nhận thức về biển, đảo; về truyền thống của Hải quân NDVN; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của QCHQ; thấy được sự quan tâm, đầu tư xây dựng của Đảng, Nhà nước, Quân đội đối với Hải quân và tương lai phát triển của Quân chủng...Qua đó khơi dậy niềm vinh dự, tự hào trong thế hệ trẻ, xác định trách nhiệm, phấn khởi, tự nguyện đăng ký tham gia thi tuyển vào HVHQ, Trường TCKT Hải quân và các cơ sở đào tạo CMKT để học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành những cán bộ, sỹ quan, QNCN, HSQ-CS Hải quân, góp phần xây dựng Quân chủng và có điều kiện phục vụ lâu dài trong Quân đội.

- Tổ chức tuyên truyền bảo đảm chặt chẽ, nghiêm túc và đạt hiệu quả thiết thực.

NỘI DUNG

I. BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC.

1. Khái quát về biển đảo Việt Nam.

Việt Nam là một nước nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam Châu Á. Lãnh thổ Việt Nam có đất liền rộng trên 331 nghìn km2 và một vùng biển rộng trên một triệu km2 (Chiếm 29% diện tích của Biển Đông và rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền). Là quốc gia ven biển, vùng biển nước ta tiếp giáp với vùng biển nhiều nước, phía Bắc giáp với vùng biển Trung Quốc; phía Đông, Nam, Tây Nam giáp với vùng biển của các nước Philippin, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Campuchia.

Nước ta có 28 tỉnh, thành ven biển, có trên 100 cửa sông đổ ra biển. Có trên 1/2 dân số sống tại các tỉnh, thành ven biển, đây là nơi tập trung nhiều đô thị lớn, kết cấu hạ tầng phát triển. Biển và ven biển nước ta dài và rộng, bờ biển dài khoảng 3.260 km (từ Quảng Ninh đến Kiên Giang), đứng thứ 27/157 quốc gia ven biển, các đảo quốc và lãnh thổ trên thế giới. Vùng biển nước ta có gần 3.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó phần lớn các đảo nằm ở khu vực ven bờ, hợp thành một hệ thống với tổng diện tích khoảng 1.638 km2, có 82 đảo diện tích lớn một km2, có 23 đảo diện tích hơn 10 km2. Các đảo của Việt Nam phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở hai khu vực Vịnh Bắc Bộ và vùng biển phía Đông Nam Bộ, gồm tuyến sát bờ và gần bờ (khoảng 30 km); tuyến tương đối xa (30 - 100 km) và tuyến xa (300 -

(2)

700 km). Các đảo và quần đảo của nước ta phân bố nối tiếp nhau, tạo thành những bức thành luỹ thiên nhiên hết sức thuận lợi cho việc bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc từ xa.

Khí hậu Biển Đông Việt Nam là khí hậu nhiệt đới, mang đặc tính hải dương và tương đối đồng nhất. Thuỷ triều trên các vùng biển Việt Nam diễn biến khá đa dạng, có đủ các chế độ thuỷ triều của thế giới như nhật triều, nhật triều không đều, bán nhật triều và bán nhật triều không đều phân bố xen kẽ, kế tiếp nhau...tạo điều kiện cho sinh vật biển phát triển phong phú và đa dạng.

Biển, đảo nước ta có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc. Từ thời xa xưa, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời sống của dân tộc ta. Vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất nước, là tiềm năng thế mạnh quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.

2. Vai trò của biển, đảo Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Biển nước ta rất phong phú về tài nguyên và khoáng sản. Tài nguyên hải sản biển nước ta rất đa dạng, với trữ lượng hơn 4,2 triệu tấn, hàng năm có thể khai thác 1,6 - 1,7 triệu tấn cá; 60 - 70 ngàn tấn tôm; 30 - 40 ngàn tấn mực và hàng chục vạn tấn các loại hải sản khác...Đây là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng, không chỉ phục vụ cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu. Ngoài ra dọc ven biển còn có các bãi triều và eo vịnh, đầm phá ven bờ rất thuận lợi để nuôi trồng hải sản, các loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao như tôm, cua, ngọc trai, cá song, cá mú, rong câu... Với tiềm năng trên, trong tương lai chúng ta có thể phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở biển và ven biển một cách toàn diện và hiện đại, tạo ra nguồn xuất khẩu có kim ngạch lớn và khả năng cạnh tranh cao trong khu vực và thế giới.

Về tài nguyên dầu khí và khí đốt, Vùng biển và thềm lục địa Việt Nam có nhiều bể trầm tích có triển vọng với trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi và hàng tỷ m3 khí. Bình quân khai thác trên 20 triệu tấn dầu thô và gần 2 tỷ m3 khí/năm, vươn lên trở thành nước lớn thứ 3 trong khu vực về khai thác dầu khí (sau Inđônêxia và Malayxia) và đứng thứ 35 thế giới về sản lượng dầu khí.

Ngoài dầu khí, các khoáng sản quan trọng và có tiềm năng lớn ở vùng ven biển là than, sắt, titan, vàng, uran, cát thuỷ tinh, muối và các loại vật liệu xây dựng khác. Trong đó, hỗn hợp khí đốt mới Băng cháy được coi là nguồn năng lượng sạch thay thế dầu mỏ và than đá trong tương lai (đây là hỗn hợp khí Mêtan và Hiđrô, trữ lượng ở vùng biển nước ta ước đạt khoảng 80 tỷ tấn).

Biển là cửa ngõ giao lưu của các ngành kinh tế trong nước, thị trường khu vực, quốc tế và có tiềm năng lớn về du lịch và phát triển cảng biển, nhất là các cảng nước sâu ở 3 khu vực kinh tế trọng điểm. So với các vùng khác trong nội địa, vùng ven biển là nơi tập trung nhiều đô thị lớn với kết cấu hạ tầng khá phát triển, có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có tiềm năng và

(3)

giá trị lớn, có nguồn lao động dồi dào và hệ thống đường sắt, thuỷ, bộ thuận tiện...là môi trường hết sức thuận lợi để tiếp nhận các vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp thu công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, từ đó lan toả ra các vùng khác trong nội địa.

Cùng với những giá trị về kinh tế, biển nước ta còn có ý nghĩa quan trọng về quốc phòng an ninh, với gần 3000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí đặc biệt quan trọng như một tuyến phòng thủ tiền tiêu bảo vệ sườn phía Đông của đất nước. Sự liên kết giữa các đảo, các cụm đảo, tuyến đảo với nhau dọc ven biển từ Bắc xuống Nam đã tạo thành một hệ thống các căn cứ điểm tiền tiêu để ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động lấn chiếm của tàu thuyền nước ngoài. Trong đó các đảo quan trọng như đảo Trần/Quảng Ninh, Bạch Long Vĩ/Hải Phòng, Cồn Cỏ/Quảng Trị, Lý Sơn/Quảng Ngãi, Phú Quý/Bình Thuận, Thổ Chu, Phú Quốc/Kiên Giang... đã trở thành những căn cứ tiền đồn vững chắc trên biển (ví như các chiến hạm không bao giờ chìm) để kiểm soát và canh giữ vùng biển, đảo của Tổ quốc. Một số đảo còn là địa bàn chiến lược để bố phòng và triển khai lực lượng quân sự, là căn cứ trong bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước.

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh có nhiều cuộc xâm lược của kẻ thù đối với nước ta được bắt đầu từ hướng biển. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, vận tải biển của ta đã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chi viện cho các chiến trường bị cô lập, góp phần quan trọng cho chiến thắng trọn vẹn, vĩ đại của dân tộc.

Vùng biển và đảo Việt Nam có vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng CNXH, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước, đến văn minh và hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, phát triển kinh tế xã hội, gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc luôn là nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

II. HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC.

1. Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Quân chủng Hải quân được thành lập ngày 7/5/1955, là một thành phần quan trọng của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ thường xuyên nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân chủng; xây dựng Quân chủng vững mạnh về mọi mặt, tiến lên chính quy, hiện đại; hoàn thành tốt nhiệm huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc; giữ vững

(4)

môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, đảo; tham gia phát triển kinh tế biển và tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn trên biển...

Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự đoàn kết hiệp đồng công tác của các đơn vị bạn, sự yêu thương đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân cả nước, Hải quân nhân dân Việt Nam đã được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh vệ quốc; trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân đã vượt qua khó khăn gian khổ, thử thách, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công xuất sắc, xây dựng nên truyền thống vẻ vang

“Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến quyết thắng”.

2. Những thành tích, chiến công tiêu biểu của Quân chủng Hải quân.

Chiến công thứ nhất: Đánh đuổi tàu khu trục Ma đốc của Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc (tháng 8 năm 1964), làm nên chiến thắng trận đầu.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, trước nguy cơ thất bại của Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Đêm ngày 31/7/1964, rạng sáng 01/8, tàu khu trục Ma Đốc của Mỹ đã tiến sâu vào vùng biển Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam và gây ra nhiều tội ác đối với nhân dân ta.

Với ý chí quyết đánh, dám đánh và quyết tâm trừng trị kẻ xâm lược, ngày 02/8/1964 các tàu phóng lôi 333, 336, 339 đã xuất kích bất chấp sự chống trả của đối phương, cán bộ, chiến sỹ 3 tàu của HQNDVN đã anh dũng kiên cường chiến đấu, buộc tàu Ma Đốc phải tháo chạy ra khỏi hải phận miền Bắc.

Đêm ngày 04/8/1964, Chính quyền Mỹ đã dựng lên cái gọi là "Sự kiện Vịnh Bắc bộ", vu cáo cho Hải quân Việt Nam cố ý tiến công tàu chiến Mỹ ở vùng biển quốc tế, để lấy cớ ngày 05/8/1964 dùng lực lượng Không quân tập kích ác liệt vào lực lượng Hải quân Việt Nam từ Sông Gianh/Quảng Bình, Cửa Hội/Nghệ An, Lạch Trường/Thanh Hóa đến Bãi Cháy/Quảng Ninh, nhằm tiêu hao lực lượng tàu chiến đấu, quân cảng, kho tàng, nhiên liệu của Hải quân Việt Nam.

Trong trận đầu thử lửa, Hải quân Việt Nam đã hiệp đồng chặt chẽ với bộ đội phòng không quốc gia, công an vũ trang, dân quân tự vệ các địa phương đập tan cuộc tập kích bằng Không quân của Mỹ, đã bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống Trung uý giặc lái An-vơ-rét (là phi công đầu tiên của Mỹ bị bắt ở miền Bắc).

Chiến thắng ngày 2 và 5/8/1964 là thắng lợi có ý nghĩa về chính trị, có tiếng vang lớn trên thế giới của quân và dân Việt Nam. Ngày 2 và 5/8/1964, mãi

(5)

mãi trở thành ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của HQNDVN và của quân, dân miền Bắc.

Chiến công thứ hai: Góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng Không quân và Hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc XHCN.

Bị thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam, Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ở chiến trường miền Bắc bằng Không quân và Hải quân nhằm phá hủy tiềm năng kinh tế - quốc phòng và ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với chiến trường miền Nam.

HQNDVN đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, đã chiến đấu anh dũng 716 trận, bắn rơi 118 máy bay, bắn bị thương 102 lần chiếc, bắn chìm và bị thương 45 tàu thuyền của địch, góp phần đánh thắng chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.

Chiến công thứ ba: HQNDVN là lực lượng nòng cốt đánh bại chiến dịch phong tỏa thuỷ lôi trên sông, biển miền Bắc.

Với quyết tâm "Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến” Hải quân Việt Nam phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt; đã nghiên cứu sáng tạo tìm ra nhiều phương thức táo bạo, dũng cảm, là lực lượng đầu tiên, trực tiếp và chủ yếu trong tháo gỡ, rà phá, làm mất hiệu lực 2.400 quả thuỷ lôi, mở tuyến, khai thông luồng lạch, bảo đảm cho tàu thuyền hoạt động, sản xuất, tiếp nhận, vận tải chi viện cho chiến trường miền Nam trên hầu hết các cửa sông, cửa biển và hải cảng; đánh bại một phương thức tác chiến chiến lược rất thâm độc của địch. Góp phần đánh bại cả 2 chiến dịch phong toả sông, biển miền Bắc của địch, bảo đảm giao thông thông suốt nối liền hậu phương lớn miền Bắc và tiền tuyến lớn miền Nam.

Chiến công thứ tư: HQNDVN tiến hành mở đường Hồ Chí Minh trên Biển Đông để vận chuyển lực lượng, vũ khí trang bị cho chiến trường miền Nam.

Để chi viện cho cách mạng miền Nam, cùng với Đoàn 559 mở đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn. Đoàn 759 (tiền thân của Đoàn 125) được thành lập để mở đường Hồ Chí Minh trên biển.

Với tinh thần "tất cả vì miền Nam thân yêu", trong suốt 14 năm vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam, HQNDVN đã chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ, mưu trí vượt qua hàng chục cơn bão lớn, hàng trăm cuộc vây ráp, các tuyến bao vây, phong toả, đối phó với từng thủ đoạn của kẻ thù; sáng tạo nhiều phương thức hoạt động độc đáo, táo bạo; hình thành nhiều tuyến, mở hàng chục bến bãi thuộc hầu hết các tỉnh ven biển miền Nam, đến tận cùng của đất nước và sát cửa ngõ Sài Gòn; vận chuyển kịp thời và đúng thời cơ trên 150 ngàn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, hàng chục ngàn lượt cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam - ở những chiến trường khó khăn nhất, nơi mà con đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn chưa thể vươn tới được, góp phần quan trọng vào giải phóng hoàn

(6)

toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn mãi mãi là một huyền thoại bất tử, là nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của dân tộc.

Chiến công thứ năm: Huấn luyện Đặc công Hải quân tăng cường cho chiến trường sông biển miền Nam; trực tiếp chiến đấu lập nên nhiều chiến công xuất sắc, đặc biệt xuất sắc trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà.

Trong điều kiện trang bị kỹ thuật còn thô sơ lại phải đương đầu với Hải quân hiện đại của Mỹ, Ngụy. Hải quân NDVN đã nghiên cứu, tìm ra cách đánh sáng tạo, độc đáo, táo bạo và đạt hiệu quả cao.

Ngày 13/4/1966, Đoàn 126 đặc công Hải quân được thành lập. Vượt qua tuyến bao vây, phong tỏa dày đặc của địch, lực lượng Đặc công Hải quân đã nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, ác liệt, thiếu thốn; tích cực cải tiến vũ khí, trang bị, liên tục bám sát nhân dân, bám sát chiến trường. Thực hiện đúng phương châm:

lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy vũ khí nhỏ tinh gọn, đánh vũ khí hiện đại;

kiên trì, bí mật, táo bạo, bất ngờ, áp sát, luồn sâu, đánh hiểm, đánh trúng. Gần 7 năm vừa làm nhiệm vụ huấn luyện, bổ sung hơn 5.000 cán bộ, chiến sỹ cho chiến trường sông biển miền Nam, Đặc công Hải quân đã tổ chức đánh trên 300 trận, đánh chìm, đánh hỏng nặng 336 tàu thuyền của Mỹ - Nguỵ, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh. Với những chiến công ấy, HQNDVN đã góp phần cùng quân dân miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Chiến công thứ sáu: Tham gia cuộc Tổng tiến công nổi dậy và Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, HQNDVN đã huy động đến mức cao nhất lực lượng tàu thuyền chiến đấu và vận tải để đưa gần 4.000 cán bộ, chiến sỹ đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chở pháo, xe tăng, vũ khí các loại từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Đã phối hợp hoạt động, chiến đấu trên một hướng chiến lược quan trọng - hướng biển, giải phóng các hải cảng, các đảo miền Trung và Tây Nam. Đặc biệt, thực hiện chỉ thị của Tổng Quân ủy, các lực lượng của Quân chủng Hải quân đã kịp thời phối hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang Quân khu 5 thần tốc, táo bạo, bí mật, bất ngờ giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và một số đảo khác, góp phần vào thắng lợi trọn vẹn, vĩ đại của dân tộc.

Chiến công thứ bảy: Bảo vệ chủ quyền vùng biển Tây Nam; 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế ở Cam-pu-chia (1979 - 1989) và giúp đỡ Lào.

Năm 1975, bằng cuộc tổng tiến công nổi dậy mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên CNXH, nhưng bọn phản động Pôn Pốt Iêng Xa-ri tiến hành lấn chiếm biên giới vùng biển, đảo phía Tây Nam nước ta. Đặc biệt năm 1978 và 1979, chúng phát động chiến tranh đánh chiếm đảo Thổ Chu và giết hại hàng trăm nhân dân ta. Hải

(7)

quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp cùng với nhân dân trên địa bàn và LLVT Quân khu 9 chiến đấu anh dũng bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo Tây Nam của Tổ quốc. Đồng thời hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia, các lực lượng của Hải quân Việt Nam đã cùng với các đơn vị bạn tiến công giải phóng thành phố cảng Kông-pông-xom, tỉnh Kô-Kông và toàn bộ các tuyến đảo thuộc vùng biển nước bạn, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng và tiếp tục 10 năm làm nhiệm vụ quốc tế, góp phần bảo vệ thành quả cách mạng và công cuộc lao động hồi sinh của nhân dân Campuchia. Cùng với việc làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Campuchia, HQND Việt Nam còn làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Lào.

Chiến công thứ tám: HQNDVN đã khắc phục, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong thời kỳ mới.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Quân chủng Hải quân được Đảng, Nhà nước, quân đội giao nhiệm vụ “Làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định trên các vùng biển, đảo”. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, mà trực tiếp là trên hướng biển, "nước ngoài" vẫn tăng cường các hoạt động xâm phạm với tính chất, qui mô, mức độ ngày càng gia tăng, để thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông... Song Quân chủng Hải quân đã kịp thời tham mưu với Quân ủy Trung ương đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương đối sách đúng đắn, xử lý có hiệu quả các tình huống trên biển, ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động của "nước ngoài" xâm phạm vùng biển của Tổ quốc. Bảo vệ thành công các hoạt động nghiên cứu, thăm dò của ta và thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn ngư dân trên biển. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, duy trì ổn định trên các vùng biển, đảo, giữ vững được chủ quyền, không để xảy ra xung đột.

Với những thành tích và chiến công tiêu biểu xuất sắc, Quân chủng Hải quân đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương Danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVTND (13/12/1989), được tặng thưởng 02 Huân chương Sao Vàng (Lần thứ nhất: 18/7/1985 và lần thứ hai: 05/5/2010), 01 Huân chương Hồ Chí Minh (18/3/1979), 02 Huân chương Độc lập (hạng Nhất 04/5/2000, hạng Nhì 29/8/1965), 03 Huân chương Quân công (hạng Nhất 10/12/1984 và 2 hạng Nhì 07/8/1964 và 20/3/1983), 01 Huân chương Lao động hạng Ba (năm 1963); 57 tập thể với 65 lượt Đơn vị được tuyên dương Danh hiệu Anh hùng LLVTND, Anh hùng Lao động (trong đó Đội 1 thuộc Đoàn 126 được tuyên dương 3 lần; các đơn vị 125, 126, 101, 83, 131, tàu HQ671 được tuyên dương 2 lần) và 37 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LVTND và Anh hùng Lao động; 6.939 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc các hạng.

3. Phương hướng xây dựng, phát triển của Hải quân nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới.

(8)

Trong thời gian tới, được sự quan tâm, đầu tư lớn của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng, các cơ quan, ban ngành Trung ương và nhân dân cả nước, Quân chủng Hải quân sẽ được xây dựng hiện đại. Trong đó, Quân chủng sẽ có một bước đột phá lớn về đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực và mua sắm VKTB, tàu thuyền có đủ số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu, tiến độ phát triển lực lượng mới, xây dựng Quân chủng Hải quân hiện đại, đủ sức quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới.

Về tổ chức, biên chế, lực lượng: Đầu tư nâng cấp các đơn vị hiện có, thành lập các đơn vị mới. Xây dựng Quân chủng Hải quân hiện đại với đủ các lực lượng của 5 binh chủng: Tàu mặt nước; tàu ngầm; pháo tên lửa bờ; Hải quân đánh bộ, Đặc công nước; Không quân Hải quân. Ngoài ra còn có các lực lượng Đo đạc-Biên vẽ hải đồ và nghiên cứu biển; lực lượng phát triển kinh tế biển, vận tải biển, một số nhà máy công nghiệp quốc phòng và cảng biển...(Quân cảng Sài gòn của Hải quân là một đơn vị làm kinh tế có hiệu quả, là một trong những đơn vị có hệ thống cảng biển lớn nhất cả nước).

Trang bị mới vũ khí, kỹ thuật, tàu thuyền: Tàu ngầm lớp Kilo hiện đại; Tàu Hộ vệ Tên lửa; Tàu khảo sát thăm dò, nghiên cứu biển; các tổ hợp tên lửa, rađa mới; trang bị máy bay hiện đại của Nga, Pháp, Canađa; trang bị cho Hải quân đánh bộ và Đặc công nước các loại vũ khí có độ chính xác rất cao, gọn nhẹ, có khả năng chịu đựng tốt hơn trong môi trường tác chiến và hoạt động dưới nước...

Tập trung xây dựng các cơ sở bảo đảm: Đầu tư xây dựng doanh trại, nhà máy, trạm xưởng; công trình cầu cảng quân sự, thao trường, bãi tập; khu học tập, sinh hoạt, ăn, nghỉ dưỡng của bộ đội; quan tâm đề nghị nâng lương, phụ cấp, quân hàm; xây dựng Thành phố quân sự quy mô, hiện đại tại Thành phố Cam Ranh - tỉnh Khánh Hòa, khu an, điều dưỡng tàu ngầm tại tỉnh Phú Yên...

Về xây dựng nguồn lực con người: Trong những năm qua, nhất là thực hiện Nghị quyết TW8 (khoá IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Nghị quyết TW4 (khoá X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Bộ quốc phòng và tích cực đào tạo cán bộ ở trong nước, đồng thời đã cử nhiều đoàn cán bộ, học viên tại Học viện Hải quân đi đào tạo ở nước ngoài (CHLB Nga, Ba Lan, Ấn Độ, Ôtxtrâylia, các nước SNG...) và thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Hải quân vững mạnh về mọi mặt, có trình độ, kiến thức toàn diện về văn hoá, KHKT, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học.

Đặc biệt từ năm 2011 trở đi, ĐUQSTW và Bộ Quốc phòng xác định Quân chủng Hải quân là một trong những đơn vị đầu tiên trong toàn quân được xây dựng theo hướng hiện đại cả về con người và vũ khí trang bị, kỹ thuật. Đây là bước phát triển mới của Hải quân nhân dân Việt Nam cả trước mắt và lâu dài, do vậy cần phải có bước phát triển đột phá mới về nguồn nhân lực có chất lượng cao, tương xứng với đúng nghĩa “Hải quân NDVN hiện đại”, thực sự là lực lượng nòng cốt

(9)

trong thế trận quốc phòng toàn dân trên biển, đảo của Tổ quốc, có vị thế quan trọng ngang tầm trong khu vực Đông Nam - Châu Á, sánh vai cùng bè bạn năm châu trên thế giới.

III. CON ĐƯỜNG ĐỂ ĐƯỢC CỐNG HIẾN, PHÁT TRIỂN TÀI NĂNG CỦA THẾ HỆ TRẺ TRONG QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN.

Để tạo ra nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển Quân chủng Hải quân NDVN hiện đại. Hiện nay Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc Phòng và Quân chủng Hải quân tiến hành nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút nguồn lực chất lượng cao để xây dựng Hải quân hiện đại cả trước mắt và trong tương lai.

Tuổi trẻ của chúng ta có rất nhiều khát vọng để thực hiện hoài bão ước mơ của mình trên con đường lập nghiệp. Và Quân chủng Hải quân NDVN Anh hùng là một môi trường lý tưởng rèn đức, luyện tài, chắp cánh cho các ước mơ hoài bão của các bạn trở thành hiện thực. Đó cũng là con đường đầy ắp những cơ hội hứa hẹn tốt đẹp đang mở ra trước các bạn và bạn nên nắm lấy. Con đường đó là: trở thành một sỹ quan, kỹ sư kỹ thuật chuyên ngành, QNCN, chiến sỹ Hải quân, chúng ta sẽ được học tập, đào tạo trong và ngoài nước, tại HVHQ hoặc ở các Học viện, Nhà trường trong Quân đội; ở Trường TCKT Hải quân hoặc đăng ký tuyển chọn nhập ngũ vào phục vụ ở các đơn vị trong Quân chủng Hải quân.

1. Học viện Hải quân - Trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học của Quân chủng Hải quân, nơi chắp cánh thực hiện ước mơ cho thế hệ trẻ.

Học viện Hải quân được thành lập ngày 26/4/1955, đứng chân tại Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, HVHQ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trọng tâm là đào tạo và nghiên cứu khoa học của Quân chủng Hải quân, Quân đội và đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt. Với đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ cao, với cơ sở vật chất, trang bị phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu và học tập hiện đại. HVHQ đã đào tạo được hàng chục ngàn cán bộ, nhân viên kỹ thuật cho Quân chủng, Quân đội, đất nước và nước bạn Lào, Campuchia. Nhiều đồng chí đào tạo tại HVHQ đã phát triển, trưởng thành cán bộ cao cấp, tướng lĩnh trong Quân đội, Quân chủng Hải quân, Nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, cử nhân khoa học, nhà kinh tế... HVHQ vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng Danh hiệu Anh hùng LLVTND trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và nhiều phần thưởng cao quý khác.

- Về chức năng, nhiệm vụ: HVHQ có nhiệm vụ đào tạo cán bộ có trình độ đại học, sau đại học cho Quân chủng Hải quân và Quân đội; Nghiên cứu khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, khoa học nhân văn quân sự, khoa học biển và thực hiện các nhiệm vụ khác được giao.

- Ngành nghề đào tạo: Hiện nay, HVHQ đang đào tạo các ngành nghề sau:

+ Đào tạo sau đại học: Đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ khoa học quân sự.

(10)

+ Đào tạo theo chức danh: Bổ túc chỉ huy tham mưu, chỉ huy kỹ thuật cấp trung, lữ đoàn.

+ Đào tạo cán bộ có trình độ đại học: Kỹ sư điều khiển tàu biển quân sự của Quân chủng Hải quân, Cục Cảnh sát biển Việt Nam, của Bộ đội Biên phòng;

Kỹ sư công nghệ Kỹ thuật điện tử Hải quân; Kỹ sư kỹ thuật điện - điện tử Hải quân; Kỹ sư vận hành khai thác máy tàu thuỷ quân sự; Kỹ sư kỹ thuật điện tàu thủy quân sự; Cử nhân chỉ huy tàu mặt nước quân sự và cử nhân chính trị.

+ Đào tạo cán bộ phân đội có trình độ cao đẳng: Cao đẳng chỉ huy tàu mặt nước quân sự.

+ Đào tạo theo nhu cầu của Quân chủng: Chuyển loại: sỹ quan ngành thành sỹ quan chỉ huy tàu mặt nước; thuyền trưởng tàu mặt nước cấp 4, cấp 5;

chuyển loại chính trị; dự bị đại học; sỹ quan dự bị; các lớp ngoại ngữ; đào tạo, bổ túc cán bộ cấp lữ đoàn, Vùng Hải quân; bổ túc kiến thức Hải quân và huấn luyện nghiệp vụ tìm kiếm, cứu nạn trên biển.

+ Liên kết đào tạo đại học và sau đại học với các trường trong và ngoài quân đội (đào tạo chỉ huy tàu mặt nước cho Cục Cảnh sát biển, Bộ đội Biên Phòng...); đào tạo sỹ quan Hải quân Quốc tế; Đào tạo tiếng Anh hàng không...

Thời gian đào tạo từ 3 đến 5 năm, tuỳ theo cấp học. Học viên tốt nghiệp ở HVHQ ra trường đảm nhiệm các chức danh: Chính trị viên, phó Thuyền trưởng, Phó trưởng ngành, Trưởng ngành... trên tàu Hải quân, tàu Cảnh sát biển, tàu Bộ đội Biên Phòng và của các ngành kinh tế biển hoặc các chức danh khác, cao hơn tùy theo cấp và ngành nghề đào tạo. Đào tạo ở HVHQ để trở thành người cán bộ sỹ quan Hải quân NDVN, trở thành Kỹ sư các ngành tàu biển phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, các ngành kinh tế biển và có điều kiện phát triển trưởng thành cán bộ cao cấp, các tướng lĩnh, các nhà khoa học về biển, kinh tế biển, kỹ sư ngành tàu biển...

HVHQ có đội ngũ giảng viên phát triển cả số lượng và chất lượng, cơ cấu đồng bộ. Đặc biệt trình độ của giảng viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy của Học viện và hoà nhập mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng trong quân đội và cả nước. Hiện nay, đội ngũ giảng viên của HVHQ có 100% trình độ đại học, 60% có trình độ sau đại học (thạc sỹ, tiến sỹ). Cán bộ, giảng viên, học viên của HVHQ tham gia các câu lạc bộ chuyên ngành, các cuộc thi Olimpic toàn quân và toàn quốc đạt kết quả tốt, giành được nhiều giải thưởng cao, qua đó tạo dựng các sân chơi, môi trường nghiên cứu ứng dụng, khuyến khích các tài năng trẻ...góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Cùng với việc chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên, HVHQ thường xuyên mời các chuyên gia nước ngoài đến huấn luyện, giảng dạy các môn ngoại ngữ và chuyên ngành tại Học viện.

Học viện thường xuyên chú trọng xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động khoa học; khu giảng

(11)

đường hiện đại; phòng thí nghiệm; trung tâm thực hành; phòng nghiên cứu khoa học - công nghệ; trung tâm huấn luyện mô phỏng (là một trong những trung tâm hiện đại nhất của các nhà trường Quân đội); thư viện điện tử; trung tâm ngoại ngữ, tin học, mạng internet, mạng LAN cùng với một môi trường đào tạo hiện đại, văn hóa và nhân văn...để đáp ứng ngày càng cao nhu cầu học tập, phù hợp với xu thế chung của các học viện, nhà trường trong cả nước và hội nhập quy trình giáo dục, đào tạo quốc tế. Ngoài ra HVHQ cũng thường xuyên xây dựng các khu vực bảo đảm nơi ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt cho cán bộ, học viên học tập, công tác tại Học viện.

Trong những năm tới, HVHQ tiếp tục đổi mới toàn diện công tác giáo dục, đào tạo và xây dựng nhà trường theo hướng "Chuẩn hoá, hiện đại hoá", tạo sự chuyển biến cơ bản, vững chắc về chất lượng, hiệu quả công tác GD&ĐT, nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo các loại hình, bậc học cơ bản theo chuẩn quốc gia. Mở rộng liên kết nghiên cứu khoa học giữa nhà trường với các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ trong và ngoài nước.

Có thể khẳng định rằng, với một môi trường đào tạo tốt, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đứng chân bên bờ biển Thành phố Nha Trang thơ mộng, điểm du lịch nổi tiếng của cả nước. HVHQ là nhà trường tin cậy để lựa chọn, học tập, cống hiến của các bạn trẻ trong cả nước.

2. Trường TCKT Hải quân với quá trình đào tạo đội ngũ QNCN chuyên môn kỹ thuật Hải quân.

Trường TCKT Hải quân được thành lập ngày 12/02/1979. Đứng chân ở Phường Cát Lái, Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh hơn 10 kilômét. Trường TCKT Hải quân với chức năng đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật có trình độ trung cấp (dài hạn và ngắn hạn), sơ cấp và học viên quốc tế.

Trải qua hơn 30 năm xây dựng và trưởng thành, Trường TCKT Hải quân đã phát triển toàn diện cả đội ngũ cán bộ, giáo viên và cơ sở vật chất kỹ thuật. Hiện nay, trường đảm nhiệm đào tạo với các chuyên ngành: Hàng hải; Máy tàu; Cơ khí tàu; Điện tàu; Vũ khí; Thông tin - Ra đa. Hàng năm, một số lượng lớn QNCN được đào tạo tại trường có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu công tác ở các nhà máy, xí nghiệp, trạm xưởng, các đơn vị của Quân chủng, toàn quân và cho nước bạn Campuchia.

Là Quân chủng kỹ thuật, Hải quân nhân dân Việt Nam được trang bị nhiều loại VKTBKT hiện đại. Ngoài việc đào tạo đội ngũ sỹ quan chỉ huy, sỹ quan kỹ thuật có trình độ cao, thì việc quan tâm đào tạo, xây dựng đội ngũ QNCN có trình độ chuyên môn kỹ thuật chuyên sâu là nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng.

Trường TCKT Hải quân đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đó của Quân chủng, đã và đang từng bước đầu tư, phát triển về mọi mặt. Nhà trường quan tâm, đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên có trình độ cao; xây dựng hệ thống cơ sở vật

(12)

chất kỹ thuật, giảng đường, khu huấn luyện thực hành hiện đại, hệ thống thư viện điện tử, nối mạng internet...

Hiện nay nhà trường đã có bước phát triển trên nhiều mặt, năng lực sư phạm, trình độ học vấn đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo của trường (trên 82% giáo viên có trình độ sau đại học, đại học và cao đẳng).

Các phòng học lý thuyết, thực hành chuyên dụng được đầu tư xây dựng hiện đại, giai đoạn 2011 - 2015 nhà trường đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ, giáo viên để nâng cấp thành trường Cao đẳng kỹ thuật Hải quân.

Ngoài HVHQ, Trường TCKT Hải quân cũng là một địa chỉ tin cậy để các bạn trẻ lựa chọn học tập phù hợp với trình độ, khả năng của mình.

3. Trung tâm huấn luyện chiến sỹ CMKT Hải quân.

Hiện nay Quân chủng Hải quân có 04 Trung tâm huấn luyện ở các Vùng 1, Vùng 2, Vùng 3, Vùng 4 với chức năng chính là huấn luyện, đào tạo hạ sỹ quan chỉ huy, chiến sỹ chuyên môn kỹ thuật các chuyên ngành trên tàu Hải quân có trình độ sơ cấp.

Là Quân chủng kỹ thuật nên mọi thành viên công tác trong Quân chủng Hải quân phải được huấn luyện nghiệp vụ, đào tạo có trình độ tương ứng với các vị trí công tác ở trên tàu Hải quân. Cùng với việc đào tạo sỹ quan chỉ huy, kỹ thuật của Học viện Hải quân, đội ngũ QNCN của Trường TCKT Hải quân, hàng năm các Trung tâm Huấn luyện tiếp nhận đào tạo hàng trăm lượt Hạ sỹ quan chỉ huy (tiểu đội trưởng) và chiến sỹ chuyên môn kỹ thuật cho các đơn vị trong toàn Quân chủng và Bộ đội Biên Phòng, Cảnh sát Biển.

IV. SỰ QUAN TÂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC, QUÂN ĐỘI ĐỐI VỚI QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN; ĐỐI VỚI HỌC VIÊN, SỸ QUAN, QNCN HẢI QUÂN NHÂN DÂN VIỆT NAM.

Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước thường xuyên có các chủ trương, chính sách về biển, đảo và quan tâm xây dựng, phát triển các lực lượng bảo vệ biển, trong đó có Quân chủng Hải quân. Những năm gần đây, mặc dù kinh tế đất nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhưng vẫn giành một lượng ngân sách lớn cho việc phát triển các lực lượng của Quân chủng Hải quân. Hiện nay, Quân chủng Hải quân đã có bước phát triển mới cả về con người và trang bị. Từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ làm nòng cốt trong bảo vệ cuộc sống lao động hòa bình của nhân dân làm ăn và sinh sống trên các vùng ven biển, trên biển, đảo của Tổ quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, thềm lục địa của đất nước Việt Nam XHCN.

* Các chế độ chính sách đối với học viên, sỹ quan, QNCN trong Quân chủng Hải quân.

1. Một số chế độ, chính sách và quyền lợi Học viên.

(13)

- Học viên học ở HVHQ, Trường TCKT Hải quân được hưởng các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quân đội về GD&ĐT ban hành đang có hiệu lực.

Được tạo điều kiện và bình đẳng về học tập, được chăm sóc sức khoẻ, được hưởng các chế độ, điều kiện học tập như sinh viên cả nước. Đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho công tác học tập và nghiên cứu khoa học. Được sử dụng các trang thiết bị phục vụ cho học tập và rèn luyện tại trường, tham gia nghiên cứu khoa học. Được đảm bảo dân chủ, được nghỉ học kỳ, nghỉ hè, nghỉ Tết, nghỉ lễ theo quy định. Được đảm bảo quân trang, tiền ăn, phụ cấp và không phải đóng học phí.

- Học viên giỏi, xuất sắc khoá học được khen thưởng theo chế độ của Bộ GD&ĐT và Bộ Quốc phòng; học viên tốt nghiệp HVHQ loại xuất sắc, rèn luyện tốt, là đảng viên Đảng CSVN, được phong quân hàm sỹ quan thượng uý (học viên tốt nghiệp khá, giỏi được phong quân hàm trung úy); được lựa chọn đơn vị công tác theo nhu cầu.

- Học viên năm thứ nhất, thứ hai tại HVHQ rèn luyện tốt, sức khỏe tốt, kết quả học tập đạt khá trở lên (điểm học bạ PTTH, điểm thi đầu vào, điểm học tại HVHQ đạt khá trở lên) được lựa chọn đi học tập ở nước ngoài. Tùy theo nhu cầu, HVHQ sẽ lựa chọn học viên đi đào tạo tại các trường Học viện, trường Đại học trong cả nước.

- Học viên kiêm chức lớp trưởng được hưởng phụ cấp trách nhiệm 0,2 so với lương tối thiểu/tháng; kiêm chức Trung đội trưởng được hưởng phụ cấp trách nhiệm 0,1 so với lương tối thiểu/tháng.

- Từ năm 2011 trở đi, QCHQ sẽ cấp học bổng hàng năm cho học viên các đối tượng đào tạo dài hạn tại các nhà trường trong và ngoài quân đội, trong nước và nước ngoài.

- Học viên là cán bộ được hưởng lương theo cấp bậc và các chế độ đối với sỹ quan Quân đội NDVN; HSQ-CS được hưởng phụ cấp và các chế độ theo quy định của HSQ-CS.

- Được thi tốt nghiệp, bảo vệ luận văn, khoá luận, được cấp bằng theo bậc học.

- Học viên tốt nghiệp ra trường được phong quân hàm cấp thiếu úy, trung úy, thượng úy và được phân công công tác sau khi tốt nghiệp.

- HSQ-CS chuyên môn kỹ thuật sau huấn luyện được thăng quân hàm Hạ sỹ, Trung sỹ; được biên chế công tác ở đơn vị tàu và các đơn vị khác trong Quân chủng phù hợp với chuyên ngành đào tạo.

2. Một số chế độ, chính sách và quyền lợi của sỹ quan Hải quân.

Sỹ quan Quân đội NDVN là cán bộ của Đảng CSVN và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, được Nhà nước phong quân hàm cấp uý, cấp tá, cấp tướng. Sỹ quan Hải quân được hưởng các chế độ

(14)

quyền lợi theo quy định của Luật sỹ quan QĐNDVN hiện hành và các chế độ đặc thù theo môi trường hoạt động và ngành nghề công tác.

Sỹ quan được hưởng tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc theo quy định. Bảng lương của sỹ quan căn cứ theo cấp bậc quân hàm và chức vụ được quy định phù hợp với tính chất, nhiệm vụ quân đội là ngành lao động đặc biệt.

Thâm niên tính theo mức lương hiện hưởng và thời gian phục vụ tại ngũ. Sĩ quan được hưởng phụ cấp, trợ cấp như đối với cán bộ, công chức có cùng điều kiện làm việc và phụ cấp, trợ cấp đặc thù quân sự.

Sỹ quan tốt nghiệp ra trường được tạo điều kiện để tiếp tục học tập các bậc học cao hơn như thạc sỹ, tiến sỹ...và được bổ nhiệm các chức vụ tương ứng với học vấn.

Hệ số bảng lương sỹ quan hiện nay: Thiếu úy: 4,2; trung úy: 4,6; thượng úy: 5,0; đại úy: 5,4; thiếu tá: 6,0; trung tá: 6,6; thượng tá: 7,3; đại tá: 8,0; chuẩn đô đốc: 8,6; phó đô đốc: 9,2.

Sỹ quan được bảo đảm điều kiện để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Được Nhà nước hỗ trợ về nhà ở, đăng ký hộ khẩu theo quy định của Chính phủ. Thân nhân của sỹ quan được hưởng các chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng (BHYT, trợ cấp khi ốm đau, tai nạn đột xuất...).

3. Một số chế độ, chính sách và quyền lợi của QNCN Hải quân.

Quân nhân chuyên nghiệp là quân nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cần thiết cho công tác chỉ huy, chiến đấu, bảo đảm chiến đấu, xây dựng quân đội và tình nguyện phục vụ lâu dài trong quân đội. QNCN được khuyến khích học tập nâng cao trình độ, phát minh sáng chế, nghiên cứu đề tài khoa học, sáng tác và được đãi ngộ về vật chất, tinh thần theo quy định của Nhà nước; được xếp công việc phù hợp với trình độ của bản thân và yêu cầu nhiệm vụ.

Đối tượng xét chuyển chế độ QNCN bao gồm hạ sỹ quan, binh sỹ hết hạn phục vụ tại ngũ có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, được huấn luyện quân sự theo quy định và tự nguyện; công nhân viên quốc phòng có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, được huấn luyện quân sự theo quy định và tự nguyện; sỹ quan QĐNDVN khi chức vụ đang đảm nhiệm không còn nhu cầu bố trí sỹ quan; công dân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật ngoài độ tuổi nhập ngũ theo luật nghĩa vụ quân sự.

QNCN có quân hàm chuẩn uý, thiếu uý, trung uý, thượng uý, đại uý, thiếu tá, trung tá và thượng tá chuyên nghiệp. Được hưởng lương theo bảng lương quy định của chính phủ; được nâng lương và hưởng các khoản phụ cấp, chính sách khác như sỹ quan; bố, mẹ, vợ con được hưởng chế độ bảo hiểm y tế như bố, mẹ, vợ, con sỹ quan tại ngũ.

QNCN Hải quân được đào tạo tại Trường TCKT Hải quân hoặc các nhà trường trong Quân đội và được xét chuyển chế độ tại các đơn vị trong Quân chủng.

(15)

QNCN ở tàu Hải quân, ở các đài trạm, ở núi cao, đảo xa...được hưởng thêm các chế độ phụ cấp, trợ cấp tuỳ theo từng khu vực, ngành nghề đảm nhiệm.

QNCN được hưởng lương theo thang bảng lương, bậc lương, quân hàm, hệ số, hạng ngạch, ngành nghề quy định.

V. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ CÓ THỂ TRỞ THÀNH SỸ QUAN, QNCN, HSQ-CS PHỤC VỤ TRONG QUÂN CHỦNG HẢI QUÂN.

1. Thi tuyển vào Học viện Hải quân: Để được đào tạo trở thành sỹ quan chỉ huy, kỹ thuật (Kỹ sư điều khiển tàu biển quân sự; Kỹ sư công nghệ Kỹ thuật điện tử Hải quân; Kỹ sư kỹ thuật điện - điện tử Hải quân; Kỹ sư vận hành khai thác máy tàu thuỷ quân sự; Kỹ sư kỹ thuật điện tàu thủy quân sự; Cử nhân chỉ huy tàu mặt nước Hải quân và cử nhân chính trị).

- Để dự thi vào HVHQ, bắt buộc thí sinh phải sơ tuyển tại Ban chỉ huy quân sự địa phương, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú. Chỉ có những thí sinh đạt được ở vòng sơ tuyển mới được nhận hồ sơ đăng ký dự thi.

- Điều kiện để được sơ tuyển là ĐVTN, có phẩm chất tốt, có lý lịch cơ bản, rõ ràng, tốt nghiệp PTTH; tuổi đời không quá 21 tuổi đối với thi sinh dân sự, 23 tuổi đối với thí sinh là quân nhân; có sức khỏe loại 1, chiều cao 1m65 trở lên.

Riêng thí sinh khu vực 1, hải đảo, dân tộc ít người, có hộ khẩu từ Quảng Trị trở vào được lấy đến sức khỏe loại 2 về thể lực và răng, chiều cao 1m63 trở lên.

- Quy trình:

+ Tham khảo thông báo tuyển sinh vào các Học viện, Nhà trường Quân đội hàng năm của Bộ Quốc phòng; của HVHQ: Tờ rơi, trang Web của HVHQ (http://hocvienhaiquan.edu.vn).

+ Đăng ký tuyển sinh tại Ban Chỉ huy quân sự địa phương cư trú (quận, huyện, thị xã).

+ Làm hồ sơ theo mẫu của tuyển sinh quân sự.

+ Sơ tuyển tại Ban chỉ huy quân sự địa phương, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.

- Các thí sinh dự thi sẽ tham gia thi chung đề, chung đợt theo quy định của Bộ GD&ĐT và tiến hành thi 1 đợt khối A tại 2 khu vực. Tuy nhiên, khi xét tuyển sẽ thực hiện theo quy định riêng. Điểm trúng tuyển sẽ xét theo 2 khu vực phía Bắc và phía Nam.

2. Đào tạo tại Trường TCKT Hải quân.

- Ngành nghề: Nhân viên khai thác, vận hành, sửa chữa các ngành: Hàng hải, Máy tàu, Cơ khí tàu, Điện tàu, Vũ khí, Thông tin - Ra đa.

- Đối tượng: Hạ sỹ quan, chiến sỹ; QNCN đang công tác trong Quân đội và Quân chủng Hải quân.

(16)

- Tiêu chuẩn: Có phẩm chất chính trị tốt; sức khoẻ tốt; học lực trung bình khá trở lên (tùy theo từng năm).

- Chỉ tiêu: Do Bộ Quốc phòng phân bổ hàng năm trên cơ sở nhu cầu của Quân chủng (năm 2009, 2010 từ 50 đến 60 học viên/năm).

- Quy trình: Quân nhân đăng ký xét tuyển tại các đơn vị đang công tác; làm thủ tục, hồ sơ xét tuyển theo mẫu quy định; cấp ủy, chỉ huy đơn vị xem xét, nếu đủ tiêu chuẩn, tiếp tục hoàn thiện hồ sơ, văn bằng gửi vào Trường để Hội đồng xét tuyển của Nhà trường và Quân chủng xem xét; nếu đủ điều kiện gọi nhập học theo quy định.

- Thời gian đào tạo: Từ 1 đến 3 năm (tuỳ theo cấp học và ngành nghề).

3. Đào tạo CMKT tại Trung tâm huấn luyện CMKT các Vùng Hải quân.

- Đối tượng: Hạ sỹ quan, chiến sỹ đang tại ngũ (sau huấn luyện CSM).

- Ngành nghề: HSQ, CS chỉ huy (Tiểu đội trưởng); chiến sỹ CMKT vận hành máy tàu, hàng hải, thông tin, ra đa, cơ khí boong, vũ khí...

- Thời gian đào tạo: Từ 5 đến 9 tháng (tuỳ theo chuyên ngành).

* KẾT LUẬN

Xây dựng và phát triển Quân chủng Hải quân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là yêu cầu tất yếu khách quan, đồng thời là sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Quân đội đối với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới mà HQND Việt Nam là lực lượng nòng cốt và trực tiếp. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, vì vậy ngoài sự nỗ lực của của Đảng, Nhà nước, Quân đội, cần có sự chung tay, góp sức của toàn dân, trong đó thế hệ trẻ của chúng ta là một lực lượng hết sức quan trọng. Cùng với tích cực học tập để hoàn thành chương trình học tập tại trường, mỗi một chúng ta hãy nghiên cứu, cân nhắc, lựa chọn và quyết định cho mình con đường đi trong tương lai phù hợp nhất. Cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam đang chờ đón các bạn, chúc các bạn học tập tốt, sức khoẻ và thành công./.

CỤC CHÍNH TRỊ HQ (Biên soạn)

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng, từ cuối năm 1973, quân dân ta ở miền Nam không những kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ vùng giải phóng, mà

- Bảo vệ Tổ quốc bao gồm: Xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân, thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện chính sách hậu phương quân đội và bảo vệ trật

Đoạn văn này thấm đậm cảm xúc của tác giả, bộc lộ rõ sự tinh tế và thiên về cảm giác của Thạch Lam, dùng từ có chọn lọc(1 loạt tính từ gợi tả), câu văn có nhịp điệu

Người Việt đã lựa chọn hình tượng Mẹ để tôn thờ, tạo nên một hệ thống các Nữ thần, Mẫu thần: Mẹ Trời, Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Núi Rừng, Mẹ Lúa, Mẹ Xứ Sở, Mẫu

Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc hiến định nguyên tắc hạn chế quyền có ý nghĩa rất quan trọng, bởi lẽ: (i) Nó làm rõ tinh thần của luật

Trong Nghị quyết Đại hội VII, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã được khẳng định là “Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của

nông thôn mới như sau:.. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng. Thông tư này quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chung xây dựng

Việc xây dựng làng văn hóa, xây dựng làng xã theo tiêu chuẩn của công tác xây dựng nông thôn mới, quả tình đạt được nhiều thành tựu, nhưng không phải