• Không có kết quả nào được tìm thấy

Việt Nam thực hiệN Kế hoạch phát triểN KiNh tế - xã hội 5 Năm 2011 - 2015:

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Việt Nam thực hiệN Kế hoạch phát triểN KiNh tế - xã hội 5 Năm 2011 - 2015: "

Copied!
4
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

1

1. Bối cảnh khởi đầu: Bất ổn kinh tế vĩ mơ cao

Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 được khởi đầu trong bối cảnh khơng thuận lợi, do kế thừa những bất ổn vĩ mơ tích tụ từ những năm cuối của thập niên trước, cĩ nguyên nhân sâu xa là cơ cấu kinh tế chậm thay đổi, lại bị tác động bởi khủng hoảng kinh tế tồn cầu trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh hội nhập.

Năm 2007 là dấu mốc hội nhập kinh tế quốc tế quan trọng của đất nước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự hội nhập này mở ra nhiều cơ hội, song cũng tạo ra nhiều thách thức đối với việc điều hành chính sách của nhà nước. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam trở thành địa chỉ của dịng vốn đầu tư nước ngồi gia tăng đột biến. Do khơng cĩ biện pháp trung hịa luồng vốn này phù hợp nên trong lưu thơng cĩ quá nhiều tiền, tạo ra một nền kinh tế bong bĩng thổi phồng giá trị các tài sản (chứng khốn, bất động sản, vàng v.v…) và theo đĩ đã làm thay đổi, sai lệch hành vi của các chủ thể thị trường và xã hội. Cụ thể là:

Trong nhĩm dân cư khá giả đã cĩ sự

chuyển hướng từ tiết kiệm sang tiêu dùng quá mức, gĩp phần làm gia tăng đáng kể chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước, từ mức 1,83% GDP trong giai đoạn 2001 - 2005 tăng vọt lên 7,51% trong giai đoạn 2008 - 2010, tạo ra tiềm ẩn bất ổn vĩ mơ lớn.

Hành vi đầu cơ vào các tài sả

n

(chứng khốn, bất động sản, vàng, ngoại tệ...) đã được kích hoạt và diễn

ra trên diện rộng, cuốn hút từ những người dân bình thường cho đến các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ quả là khơng ít nguồn lực đã khơng đi vào nền kinh tế thực để nâng cao năng lực sản xuất, cơng nghệ, kỹ năng, dẫn đến hiệu quả của nền kinh tế cĩ xu hướng suy giảm.

Nhiều doanh nghiệp cĩ hành vi vay mượn thái quá, đầu tư ngồi ngành, thậm chí đầu tư sở hữu chéo sang cả hệ thống tài chính ngân hàng.

Rủi ro trong hệ thống tài chính ngân

hàng gia tăng do trong nền kinh tế cĩ quá nhiều tiền nên các ngân hàng cho vay dễ dãi, chú trọng nhiều vào giải ngân thay vì hiệu quả và quản trị rủi ro. Khơng ít các tổ chức tài chính ngân hàng đã khơng đảm bảo đạo đức nghề nghiệp và tinh thần thượng tơn pháp luật.

Hiệu quả đầu tư cơng suy giảm do

đầu tư cơng dàn trải. Cơ chế xin- cho tồn tại trong nhiều năm cĩ xu hướng tiếp tục gia tăng. Những bất cập trong phân cấp và yếu kém trong cơng tác quy hoạch đã dẫn đến việc khơng gian kinh tế (quốc gia hay vùng kinh tế) bị lấn át bởi khơng gian hành chính, càng làm trầm trọng thêm vấn đề hiệu quả đầu tư cơng.

Cuộc khủng hoảng kinh tế tồn cầu nổ ra vào cuối năm 2008 càng làm lộ rõ những yếu kém cơ cấu và khuyếch đại những rủi ro nêu trên, với hệ quả là tăng trưởng suy giảm và bất ổn kinh tế vĩ mơ gia tăng khi Việt Nam bước vào thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015.

Việt Nam thực hiệN Kế hoạch phát triểN KiNh tế - xã hội 5 Năm 2011 - 2015:

Nửa chặNg đườNg NhìN lại

BÁO CÁO TÓM TẮT CHÍNH SÁCH

Tháng 10/2013

Báo cáo tĩm tắt chính sách được viết dựa trên kết quả

“Báo cáo nghiên cứu đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giữa kỳ (2011 - 2013) của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015)” của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện tháng 9/2013, trong khuơn khổ Dự án Nâng cao năng lực xây dựng các chính sách phát triển con người ở Việt Nam (HDPM) do UNDP tài trợ.

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (VASS) Chịu trách nhiệm nội dung:

TS. Nguyễn Thắng cùng nhĩm tác giả

Chịu trách nhiệm xuất bản:

GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn Phĩ Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

© VASS

(2)

2 2. Giai đoạn 2011 - 2013: Tập

trung giải quyết các bất ổn vĩ mơ và khởi động quá trình tái cơ cấu nền kinh tế

Năm 2011 là một năm đặc biệt, khơng chỉ bởi đây là năm khởi đầu của Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 mà là năm cĩ hàng loạt các quyết định quan trọng được đưa ra: Nghị quyết 11 (tháng 2/2011) của Chính phủ về ổn định kinh tế vĩ mơ; Nghị quyết Trung ương 3 (tháng 10/2011) về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng.

2.1. Gĩi giải pháp ổn định kinh tế vĩ mơ: Thực thi và tác động Sau hơn hai năm thực hiện, gĩi giải pháp bình ổn vĩ mơ của NQ 11/CP với trọng tâm là các chính sách tiền tệ và tài khĩa chặt chẽ đã phát huy tác dụng: Lạm phát đã được kiềm chế; các cán cân vĩ mơ được cải thiện đáng kể; các hoạt động đầu cơ đã giảm; thị trường vàng và ngoại tệ đi vào ổn định; dự trữ ngoại hối được củng cố; tâm lý lạm phát của cơng chúng đã được cải thiện đáng kể và lịng tin vào giá trị của đồng tiền Việt Nam tăng lên. Tuy nhiên, giá của sự đánh đổi khơng nhỏ, với tốc độ tăng trưởng năm 2012 giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một thập niên (Hộp 1).

2.2. Tái cơ cấu nền kinh tế: Tiến độ và thách thức

Ngày 19/02/2013, Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển

đổi mơ hình tăng trưởng theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế đã được phê duyệt. Tuy nhiên, cho đến nay những nội dung của Đề án này mới ở trong giai đoạn khởi động, và nhìn chung, chương trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mơ hình tăng trưởng cĩ tiến độ thực hiện chậm so với kỳ vọng và đặc biệt là so với tính cấp thiết của chương trình.

2.2.1. Về tái cơ cấu đầu tư cơng Cho đến nay, chưa cĩ đề án riêng cho tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư cơng, mà quá trình tái cơ cấu chủ yếu dựa vào Chỉ thị 1792/CT- TTg ngày 15 tháng 10 năm 2011 về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ. Quá trình triển khai bước đầu đạt được một số kết quả, đĩ là:

(i) giải quyết được một phần mâu thuẫn giữa các dự án đầu tư và khả

1. Hệ số ICOR đã tăng lên đến 7,27 trong giai đoạn 2008 - 2010, cao hơn đáng kể so với mức 4,58 của giai đoạn 2001 - 2005 và 4,89 của giai đoạn 2006 - 2007; Năng suất tổng hợp (TFP) từ mức tăng trung bình 2,07%/1 năm trong giai đoạn 2000 - 2008, đã giảm xuống chỉ còn tăng trung bình 0,73%/1 năm trong giai đoạn 2008 - 2010.

Hộp 1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2013:

Bức tranh với các gam màu sáng tối đan xen nhau Ổn định kinh tế vĩ mô

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm mạnh từ mức cao 18,13% năm 2011 xuống còn 6,81% năm 2012 và được dự báo sẽ ở mức xung quanh 7% được coi là một điểm sáng của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, lạm phát lõi (sau khi đã loại trừ biến động giá lương thực và năng lượng, tức là loại trừ các yếu tố phi tiền tệ) khoảng 10 - 11% và như vậy, vẫn là cao hơn nhiều mức lạm phát chung. Điều này cho thấy những rủi ro về lạm phát do các yếu tố tiền tệ gây ra vẫn còn tiềm ẩn đáng kể và do đó, nên cần tiếp tục có các chính sách vĩ mô thận trọng.

Những điểm sáng khác liên quan đến ổn định kinh tế vĩ mô là thâm hụt thương mại đã giảm mạnh và hiện đang ở mức thấp hơn đáng kể so với kế hoạch đặt ra cho giai đoạn kế hoạch 2011 - 2015 là nhập siêu không quá 10% kim ngạch xuất khẩu1; bội chi ngân sách theo hướng giảm đi (bằng 4,9%

GDP năm 2011 và 4,8% GDP năm 2012) tuy vẫn còn cao hơn so với chỉ tiêu đặt ra là không vượt quá 4,5% GDP; nợ công vẫn còn ở trong phạm vi kiểm soát được (bằng 55,4% GDP năm 2011, so với chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch là không vượt quá 65% GDP2).

Tăng trưởng kinh tế

Trong giai đoạn hai năm đầu của kế hoạch 5 năm là 2011 và 2013, tốc độ tăng trưởng suy giảm rất rõ nét, chỉ còn trung bình 5,46% (năm 2011: 5,83% và năm 2012: 5,03%3), thấp hơn rất nhiều so với chỉ tiêu tăng trưởng do Nghị quyết Đại hội 11 đặt ra là 7 - 7,5%, và cả so với chỉ tiêu đã được điều chỉnh 6,5 - 7% theo Nghị quyết được Quốc hội khóa 13 đưa ra vào tháng 10/2011. Các dự báo cho các năm còn lại của giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy nền kinh tế sẽ phục hồi chậm chạp theo kiểu hình chữ U, với tốc độ tăng trưởng cho các năm 2013, 2014 và 2015 nằm trong khoảng 5,1 - 5,31%, 5,4 - 5,63% và 5,4 - 5,92%. Như vậy, khả năng không đạt được các chỉ tiêu đã đề ra là khá cao.

Lao động và việc làm

Trái với những dự đoán về khả năng tỷ lệ thất nghiệp tăng do nền kinh tế không tạo ra đủ việc làm cho lực lượng lao độâng mới tham gia vào thị trường lao độâng, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm nhẹ trong giai đoạn 2008 - 2012.

Tuy nhiên, số giờ làm việc bình quân/tuần của lao độâng ở tất cả các ngành năm 2012 đều giảm so với năm 2008, dẫn đến số giờ làm việc bình quân/

tuần trung bình giảm từ 46,2 giờ/tuần xuống còn 42,1 giờ/tuần. Tỷ trọng lao động không có bảo hiểm xã hội gia tăng đáng kể, từ mức 74,8% trong năm 2011 lên 78% trong năm 2012. Tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng tăng lên từ 43,5% năm 2010 lên 46,9% năm 2012. Như vậy đã có dấu hiệu của sự suy giảm chất lượng việc làm.

1. Cụ thể, nhập siêu bằng 9,9% kim ngạch xuất khẩu trong năm 2011, xuất siêu nhẹ khoảng 200 triệu USD trong năm 2012, và nhập siêu ở mức không đáng kể là 577 triệu USD, tức là khoảng 0,7% kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng đầu năm 2013 - và đây là những con số rất ấn tượng so với kế hoạch đề ra.

2. Tuy nhiên, nếu tính cả nợ của doanh nghiệp nhà nước (do có không ít trong số này nhận được một “sự bảo lãnh ngầm” vì khi gặp khó khăn có thể sẽ được Chính phủ trợ giúp) thì con số này còn cao hơn đáng kể và đây là điều cần lưu ý khi phân tích tính bền vững của nợ công.

3. Tốc độ tăng trưởng năm 2012 là mức thấp nhất kể từ năm 2000 trở lại đây và là mức thấp thứ hai trong 20 năm qua.

BÁO CÁO TÓM TẮT CHÍNH SÁCH

(3)

3 năng bảo đảm nguồn vốn, và bố trí

vốn đã tập trung hơn; (ii) các khâu trong quản lý đầu tư phát triển được thực thi hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, thể chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư nhà nước về cơ bản chưa được cải thiện đáng kể, chưa tái phân bổ theo hướng trọng tâm, ưu tiên trong bối cảnh nguồn vốn rất hạn hẹp. Chưa giải quyết được những vấn đề liên quan đến quy hoạch phát triển tổng thể quốc gia, phát triển ngành, vùng và liên kết vùng; hay vấn đề phân cấp đầu tư và phân cấp ngân sách, đặc biệt là giữa Trung ương và địa phương;

đến vấn đề huy động nguồn vốn tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng.

Hơn nữa, những vấn đề tồn đọng trong quá khứ liên quan đến đầu tư cơng vẫn chưa được giải quyết, trong đĩ nổi cộm nhất là khoản nợ đọng xây dựng cơ bản ước khoảng 90 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng hơn 30% tổng số nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Do vậy, việc giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản cĩ lẽ sẽ là nút mở quan trọng mà nhà nước cĩ thể chủ động xử lý để làm cho vốn trong xã hội lưu thơng, đồng thời gĩp phần hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng.

2.2.2. Về tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng

Trong nỗ lực cải thiện những hạn chế của thị trường tài chính, ngày 1/3/2012, Chính phủ đã ra Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015. Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thực hiện việc phân nhĩm các ngân hàng thương mại (NHTM) để kiểm sốt rủi ro; các ngân hàng yếu kém đã được sát nhập hoặc tự tái cơ cấu. Vào thời điểm quý III năm 2013, hệ thống ngân hàng đã ổn định hơn nhiều so với thời điểm cuối năm 2011.

Cĩ một số thay đổi quan trọng liên quan đến các quy định. Cụ thể, trong tháng 4/2012, NHNN đã ban hành Quyết định 780 về cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên nợ xấu mới chỉ được xử lý bằng các thủ pháp kỹ thuật để đưa các khoản này ra ngồi bảng, chứ chưa được

xử lý về thực chất. Khơng loại trừ cĩ những khoản vay mới được dùng để trả nợ cũ.

Tiếp theo, ngày 21/01/2013, NHNN đã ban hành Thơng tư số 02/2013/

TT-NHNN (Thơng tư 02), cĩ hiệu lực từ 01/6/2013 nhằm giúp hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận sát hơn với thơng lệ quốc tế và phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng. Tuy nhiên sau đĩ thời hạn hiệu lực đã được lùi lại 1 năm (tức là đến ngày 01/6/2014). Đây là một bước lùi, cho dù là cần thiết và chỉ mang tính tạm thời. Bởi vậy cần đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt thời hạn mới 01/6/2014 và điều này cần phải được truyền tải rất rõ ràng đến các ngân hàng thương mại.

Một diễn biến quan trọng khác là Nghị định về thành lập Cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã được ban hành vào ngày 21/5/2013.

VAMC bắt đầu hoạt động từ ngày 26/7/2013 và được kỳ vọng sẽ là một trong những cơng cụ gĩp phần đẩy nhanh hơn quá trình xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, hệ thống tài chính ngân hàng vẫn cịn nhiều hạn chế: Thứ nhất, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là một hệ thống gồm các ngân hàng cĩ khả năng quản trị rủi ro chênh lệch nhau, và bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi vấn đề nợ xấu chưa được xử lý nên chắc chắn chưa phải là một hệ thống bền vững và miễn nhiễm với các rủi ro, trong đĩ cĩ rủi ro thanh khoản. Thứ hai, vấn đề giám sát hệ thống tài chính ở Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn chế.

Cịn rất nhiều việc cần phải làm để cĩ thể lành mạnh hĩa hệ thống tài chính ngân hàng, tạo tiền đề cho những cải cách sâu rộng tiếp theo, trong đĩ cĩ việc hỗ trợ cho tái cơ cấu doanh nghiệp với trọng tâm là các doanh nghiệp nhà nước.

2.2.3. Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

Một loạt các văn bản pháp luật liên quan đến tái cơ cấu DNNN đã được ban hành, trong đĩ bao gồm Quyết định số 704/QĐ-TTg (11/6/2012) phê duyệt Đề án đổi mới quản trị

doanh nghiệp theo thơng lệ kinh tế thị trường; Quyết định 929/QĐ- TTg (17/7/2012) phê duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đồn kinh tế, tổng cơng ty nhà nước giai đoạn 2011 - 2015; Nghị định số 99/2012/NĐ- CP (15/11/2012) về phân cơng, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tất cả các Bộ, ngành, địa phương, tập đồn kinh tế và Tổng cơng ty 91; phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 12/21 tập đồn, tổng cơng ty 91.

Cĩ thể nhận thấy Đề án cũng như các văn bản đã tập trung giải quyết vấn đề cổ phần hố (hiện triển khai cịn chậm), thối vốn khỏi các lĩnh vực khơng thuộc ngành nghề kinh doanh chính (song cũng tiến triển chậm). Tuy nhiên, một trong những vấn đề cốt lõi là ràng buộc ngân sách cứng, kỷ luật thị trường và mơi trường cạnh tranh bình đẳng chưa được thể hiện rõ nét.

Việc thối vốn gặp rất nhiều khĩ khăn, thậm chí là ít khả thi do bị ràng buộc bởi quy định DNNN khơng được làm thất thốt vốn, tức là phải bán tài sản ít nhất ngang với giá trị sổ sách. Động thái chuyển một số tổng cơng ty quay lại Bộ quản lý dường như đang quay trở lại mơ hình “Bộ chủ quản” vẫn được coi là khơng thực sự hiệu quả. Bởi vậy, nên cĩ thể cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế, trong đĩ cĩ kinh nghiệm của Inđơnêxia (cĩ

BÁO CÁO TÓM TẮT CHÍNH SÁCH

(4)

4 Viện Hàn lâm Khoa học

xã hội Việt Nam (VASS) Số 1, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam ĐT: +84.462730408 Fax: +84.462730471 Email: vass@vass.gov.vn

© VASS

Bộ doanh nghiệp nhà nước thực hiện tái cơ cấu và quản lý DNNN).

3. Khuyến nghị chính sách 3.1. Ổn định kinh tế vĩ mơ

Tăng cường cơng tác giám sát lạm - phát bằng cách đưa thêm chỉ số lạm phát lõi (tức là loại bỏ giá lương thực, thực phẩm và giá năng lượng) vào hệ thống giám sát để tách bạch được ảnh hưởng của các yếu tố phi tiền tệ đến lạm phát trong bối cảnh giá lương thực tồn cầu tiếp tục giảm và giá năng lượng trong nước tiếp tục chuyển sang cơ chế thị trường.

- Tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng do rủi ro lạm phát vẫn cịn hiện hữu, nhất là từ phía các yếu tố thuộc nhĩm chi phí đẩy (giá điện, xăng dầu, giá lương thực, thực phẩm) hay từ phía một số nhĩm hàng (y tế, giáo dục) và lạm phát kỳ vọng (lạm phát tâm lý) vẫn cịn đáng kể. Tiếp tục củng cố dự trữ ngoại hối bằng việc mua vào ngoại tệ tại các thời điểm phù hợp. Thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt để tiếp tục giúp nền kinh tế cĩ thể tự hấp thụ và phản ứng tốt hơn đối với các cú sốc từ nền kinh tế tồn cầu và tăng dư địa cho chính sách tiền tệ. Thực hiện một cách cĩ hiệu quả việc ưu tiên cung ứng tín dụng cho khu vực nơng nghiệp và nơng thơn, lĩnh vực xuất khẩu, cơng nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao động.

Cần nâng cao tính minh bạch, tính nhất quán và tính tiên liệu trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.

Về chính sách tài khĩa

- , cĩ thể nâng

trần bội chi ngân sách lên 5,3% GDP để cĩ thêm dư địa xử lý nợ xấu. Tuy nhiên cần khẳng định đây khơng phải là kích cầu mà là để tập trung cho thanh tốn nợ đọng từ các cơng trình đầu tư cơng và hồn thành các dự án trọng điểm cịn dở dang do thiếu vốn.

Đối với chính sách an sinh xã hội

- ,

cần tăng cường hỗ trợ tạo việc làm ở khu vực kinh tế phi chính thức thơng qua việc tháo gỡ các khĩ khăn cản trở sự phát triển của khu vực này để giúp duy trì việc làm và sinh kế cho những người lao động nghèo, ít kỹ năng. Hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội cho người thu nhập thấp, người nghèo và các nhĩm yếu thế trong xã hội. Các giải pháp này cũng gĩp phần chặn đà thu hẹp sức mua thị trường

trong nước do người thu nhập thấp thường cĩ khuynh hướng tiêu dùng hàng nội địa.

3.2. Đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế Đối với tái cơ cấu đầu tư cơng

- , cần

thực hiện nghiêm Thơng tư 1792;

gắn tái cơ cấu đầu tư cơng với quy hoạch tổng thể, liên vùng, vùng và địa phương; tăng cường cơng tác kiểm tra giám sát và sớm ban hành Luật đầu tư cơng như một sự thay đổi thể chế quan trọng trong quá trình này.

Đối với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà - nước, cần buộc các doanh nghiệp nhà nước, các tập đồn, tổng cơng ty phải chịu ràng buộc ngân sách cứng và kỷ luật thị trường, bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân, chịu sự giám sát chặt chẽ theo tiêu chuẩn của các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn. Cũng cần cĩ sự xem xét sửa đổi quy định cho phép các doanh nghiệp nhà nước thối vốn hay bán tài sản theo giá thị trường và bằng một cơ chế minh bạch thay cho giá trị sổ sách. Đồng thời cĩ cơ chế bắt những người khơng tuân thủ quy định nhà nước gây nợ xấu phải bán tài sản để trả các khoản nợ này (như kinh nghiệm của Inđơnêxia).

Đối với tái cơ cấu hệ thống ngân - hàng, cần phải thực hiện quyết liệt hơn, yêu cầu các ngân hàng thương mại trích lập quỹ dự phịng rủi ro để tránh trường hợp khai báo “lãi giả, lỗ thật” và giảm tỷ lệ nợ xấu một cách bền vững. Giám sát chặt chẽ sở hữu chéo. Vận hành hiệu quả VAMC nhằm khơi phục niềm tin cho doanh nghiệp, gĩp phần đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu. Từng bước nỗ lực tìm kiếm các nguồn lực tài chính như cách mà nhiều nước trên thế giới đã làm để giải quyết thật nhanh, dứt điểm các khoản nợ xấu đang bị khoanh lại.

3.3. Thúc đẩy cải cách thể chế Tạo mơi trường thể chế và nâng cao năng lực quản trị quốc gia, với việc nhà nước thực thi vai trị khơng chỉ là quản lý mà là kiến tạo sự phát triển. Ví dụ, trên tinh thần dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, cần cho thí điểm xây dựng các khu hành chính kinh tế đặc biệt như là các đột phá để tạo ra các xung lực tăng trưởng mới cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn tới n

BÁO CÁO TÓM TẮT CHÍNH SÁCH

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Thứ ba: Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại Agribank, luận án đã chỉ ra: tuy đã xây dựng chiến lược, khẩu vị rủi ro, chính sách và các chức

Thủ đoạn thâm độc nhất của thực dân Pháp trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất là:.. Đánh thuế nặng vào các

Trước bối cảnh đó, CBDC hứa hẹn mang lại hạ tầng thanh toán an toàn, ổn định cho người dân, nền kinh tế và là công cụ quản lý, kiểm soát hữu hiệu cho chính phủ thông

Thông qua việc nghiên cứu sự tác động của công tác đánh giá thực hiện công việc theo Thẻ điểm cân bằng đến kết quả thực hiện công việc của đội ngũ nhân viên tại

Xác định tên và quy mô của từng trung tâm công nghiệp có giá trị sản xuất công nghiệp từ 9 nghìn tỉ đồng trở lên ở Đồng bằng sông Hồng.. Kể tên các khu kinh tế ven biển

Trong nền kinh tế tri thức đó, con người chính là yếu tố trung tâm, là chủ thể kiến tạo xã hội, do đó yêu cầu đặt ra là con người luôn phải thích nghi với những tri thức

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập

Để đảm bảo hiệu quả phanh phù hợp với điều kiện chuyển động, trên xe được trang bị hai hệ thống phanh, hệ thống phanh cơ khí với các cơ cấu phanh kiểu ma sát và