• Không có kết quả nào được tìm thấy

167 - ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ThS. Phạm Thị Hồng Mỵ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Chia sẻ "167 - ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ThS. Phạm Thị Hồng Mỵ"

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC

ThS. Phạm Thị Hồng Mỵ* Trường Đại học Sài Gòn

Tóm tắt: Bài viết sẽ phân tích vai trò, thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên trong giai đoạn hiện nay, chỉ rõ được một số nguyên nhân, hạn chế, khó khăn trong công tác nghiên cứu khoa học của người học. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động đào tạo đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới theo cách tiếp cận AUN-QA.

Từ khóa: nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng, hoạt động đào tạo, AUN-QA

1. Đặt vấn đề

Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì tính đến hết quý IV năm 2017, số người có trình độ đại học trở lên chưa có việc làm là hơn 215.000 người, chiếm tỷ lệ 4,12% trong tổng số người thuộc nhóm có trình độ này; tới quý IV năm 2018 tỷ lệ này giảm xuống còn 2,57% tương ứng với hơn 135.000 người. Vì vậy, năm học 2019 - 2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhất là nhân lực chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng sẽ tăng cường công tác kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục đại học. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2019, cả nước đã có 121 cơ sở giáo dục đại học và 3 trường cao đẳng sư phạm đạt chuẩn chất lượng theo bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam, chiếm 51% tổng số các trường đại học, học viện trên cả nước (Thùy Linh, 2019). Dựa theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng cụ thể rằng: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược”. Mục tiêu tổng quát của Chiến lược cũng đã đề ra rằng: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo

* Email: phammydl@gmail.com

(2)

đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập” và mục tiêu cụ thể được hoạch định là “Tăng cường gắn đào tạo với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đáp ứng nhu cầu xã hội”.

Như vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới theo cách tiếp cận AUN-QA thì giải pháp đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên sẽ đóng vai trò cần thiết hiện nay.

2. Vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với việc nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới theo cách tiếp cận AUN-QA

Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu vì sau khi quốc gia ra đời từ cuộc cách mạng xã hội, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, chia, tách hay hợp nhất quốc gia,…

muốn tồn tại và phát triển thì cần có sự mở rộng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt trong đời sống quốc tế với nhau. Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là

“intégration internationale”). Hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế (Phạm Quốc Trụ, 2011).

Ở Việt Nam, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thường được gọi ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn với việc tham gia vào Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại giữa Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA),…

được điều chỉnh các lĩnh vực không chỉ là thương mại truyền thống mà còn cả những lĩnh vực phi truyền thống như môi trường, sở hữu trí tuệ, lao động,… Với việc tham gia vào các thể chế kinh tế, ký kết các hiệp định điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực về thương mại, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, môi trường,… để qua đó nhằm phát huy tiềm năng, nội lực, khai thác với lợi thế, các thành tựu khoa học và công nghệ của các nước để phát triển.

Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng sẽ đặt ra những yêu cầu cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong nước như là: (i) Ngoại ngữ, đây là một rào cản cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong việc tìm kiếm thu thập tài liệu. Vì vậy, cần phải tự đào tạo nâng cao khả năng sử dụng ngoại ngữ thì mới có thể tiếp cận các tài liệu nước ngoài hay viết bài đăng trên các tạp chí quốc tế theo tiêu chuẩn ISI hoặc Scopus; (ii) Thông tin

(3)

khoa học, bí quyết công nghệ, đào tạo nhân lực và hỗ trợ trang thiết bị, góp phần đẩy nhanh quá trình nghiên cứu khoa học ở trong nước; (iii) Công tác xây dựng, phương pháp giảng dạy, đánh giá các chương trình trình độ đại học, sau đại học; cơ sở vật chất trong việc nghiên cứu khoa học như là các phòng thí nghiệm chung,…; (iv) Công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học cần được tăng cường các biện pháp thực thi, tránh tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; (v) Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về khoa học và công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu về khoa học và công nghệ; và (vi) Khuyến khích nhà khoa học tính cực sáng tạo nghiên cứu khoa học với các cơ chế đãi ngộ hợp lý.

Trước đòi hỏi của hội nhập quốc tế về nghiên cứu khoa học trong khu vực, mạng lưới đảm bảo chất lượng của hệ thống các trường đại học ASEAN (ASEAN University Network - Quality Assurance, AUN-QA) là một nhóm các giám đốc chất lượng do các trường đại học thành viên AUN chỉ định làm đầu mối để điều phối các hoạt động nhằm thực hiên sứ mệnh hài hòa tiêu chuẩn giáo dục của các trường đại học ở ASEAN. Các hoạt động AUN-QA được thực hiện cung cấp một loạt các hướng dẫn để thúc đẩy phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng như các công cụ để duy trì, cải thiện và tăng cường giảng dạy, nghiên cứu và tổng thể các tiêu chuẩn học tập của các trường đại học thành viên AUN.

Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học là mức độ yêu cầu về những nội dung và điều kiện mà chương trình đào tạo phải đáp ứng để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học là việc thu thập, xử lý thông tin, đưa ra những nhận định dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá đối với toàn bộ các hoạt động liên quan đến chương trình đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học, bao gồm: mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; bản mô tả chương trình đào tạo; cấu trúc và nội dung chương trình dạy học; phương pháp tiếp cận trong dạy và học; đánh giá kết quả học tập của người học; đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên; đội ngũ nhân viên; người học và hoạt động hỗ trợ người học; cơ sở vật chất và trang thiết bị; nâng cao chất lượng và kết quả đầu ra.

Bộ tiêu chuẩn của AUN-QA bao gồm 11 tiêu chuẩn và mỗi tiêu chuẩn được đánh giá dựa trên thang điểm 7, các tiêu chuẩn này bao gồm: Tiêu chuẩn 01: Mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo; Tiêu chuẩn 02: Bản mô tả chương trình đào tạo; Tiêu chuẩn 03: Cấu trúc và nội dung chương trình dạy học; Tiêu chuẩn 4: Phương pháp tiếp cận trong dạy và học; Tiêu chuẩn 5: Đánh giá kết quả học tập của người học; Tiêu chuẩn 6: Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên; Tiêu chuẩn 7: Đội ngũ nhân viên; Tiêu chuẩn 8: Người học và hoạt động hỗ trợ người học; Tiêu chuẩn 9: Cơ sở vật chất và trang thiết bị; Tiêu chuẩn 10: Nâng cao chất lượng; Tiêu chuẩn 11: Kết quả đầu ra. Vì vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một trong những nội dung của tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng đào tạo.

Cách tiếp cận AUN-QA sẽ đặt ra một số yêu cầu đối với hoạt động nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học như là: (i) Đánh giá, xây dựng chương trình đào tạo

(4)

đại học và sau đại học, phương pháp giảng dạy; (ii) Tăng cường thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên và giảng viên; (iii) Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu khoa học; (iv) Cắt giảm thủ tục hành chính, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học; và (v) Thúc đẩy mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục đại học với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Theo Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Đối với một cơ sở giáo dục đại học sẽ có hai nhiệm vụ quan trọng song hành là đào tạo con người và nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong công tác nâng cao chất lượng đào tạo vì góp phần nâng cao hoạt động đào tạo, tạo ra những phát minh, sáng chế phục vụ cho cuộc sống của con người.

Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên với nhiều hình thức khác nhau như là viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm khóa luận tốt nghiệp hay làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,… Đây là bước đệm quan trọng để sinh viên có thể tiếp cận với những vấn đề mà khoa học và thực tiễn cuộc sống đặt ra, gắn lý luận với thực tiễn, có thể giúp sinh viên mở rộng vốn kiến thức cũng như nâng cao kỹ năng mềm cho bản thân. Đây cũng là hoạt động để sinh viên có tác phong làm việc thêm khoa học, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, rèn khả năng tư duy khoa học, khả năng phân tích, đánh giá, nhìn nhận, bác bỏ hay chứng minh một quan điểm nào đó. Khi thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ mở rộng thêm vốn kiến thức của mình, nâng cao điểm số học tập, có cơ hội nhận được các giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học của trường, thành phố.

Tóm lại, việc sinh viên nghiên cứu khoa học vừa mang lại lợi ích của chính bản thân sinh viên và mặt khác lại giúp nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo đại học theo hướng tiếp cận AUN-QA.

3. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên hiện nay 3.1. Những kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên

Cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng gia tăng về số lượng. Cụ thể, chỉ tính trong giai đoạn 2011 - 2019 đã có 2.633 đề tài với gần 7.000 sinh viên thực hiện, 670 lượt các cơ sở giáo dục đại học tham gia. Các công trình dự thi được đánh giá có tính mới, tính sáng tạo, có giá trị khoa học và thực tiễn. Chất lượng đề tài của sinh viên ngày càng tốt hơn, trong số đó có những bài báo công bố quốc tế và trong nước, phát triển thành các sản phẩm ứng dụng trong thực tiễn. Nhiều đề tài đã được các em tiếp tục nghiên cứu ở bậc học cao hơn (thạc sĩ, tiến sĩ) cũng có nhiều sản phẩm đề tài đã được khởi nghiệp.

Năm 2017, giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học đã thu hút được tổng số 336 đề tài nghiên cứu thuộc 6 lĩnh vực khoa học và công nghệ tham gia xét giải gồm lĩnh vực Khoa học tự nhiên, Khoa học kỹ thuật và công nghệ, Khoa học y dược, Khoa học nông nghiệp, Khoa học xã hội và nhân văn. Đều là những đề tài xuất sắc nhất được lựa chọn

(5)

từ hàng nghìn đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở 77 trường đại học, học viện trong cả nước (Trung tâm Truyền thông Giáo dục, 2017).

Năm 2018, giải thưởng nhận được 389 đề tài dự thi từ 88 trường đại học, học viện trong cả nước. Theo đó, có 63 đề tài sản phẩm lọt vào vòng chung khảo. Kết quả có 9 đề tài đạt giải nhất, 49 đề tài đạt giải nhì, 96 đề tài đạt giải ba, 137 đề tài giải khuyến khích (Trung tâm Truyền thông Giáo dục, 2018).

Năm 2019, giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học cũng đã thu hút được 419 đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên tham gia xét giải. Đây là những đề tài xuất sắc nhất được lựa chọn từ hàng nghìn đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở 85 trường đại học, học viện trong cả nước (Trung tâm Truyền thông Giáo dục, 2019).

Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu khoa học cũng đã được các trường đại học đẩy mạnh. Cụ thể, có một số trường đại học đã thành lập câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, phát huy ý tưởng sáng tạo của sinh viên. Hội sinh viên trường tổ chức ngày hội trao đổi sách, giúp các sinh viên không chỉ tìm thấy những tài liệu mình cần mà còn tiết kiệm được chi phí mua tài liệu giáo trình. Hội sinh viên nhiều trường đã vận động sinh viên tham gia các công trình, đề tài nghiên cứu, tổ chức các cuộc thi nhằm phát huy ý tưởng sáng tạo của sinh viên đồng thời liên kết phòng quản lý nghiên cứu khoa học của nhà trường và phối hợp với một số sở, ban ngành để giúp sinh viên có kinh phí triển khai thực hiện công trình nghiên cứu. Cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, phòng máy tính,… phục vụ cho sinh viên nghiên cứu khoa học cũng đã được các cơ sở giáo dục đầu tư, chú trọng để phục vụ cho sinh viên nghiên cứu.

3.2. Hạn chế, khó khăn trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên

Bên cạnh những kết quả đã đạt được của sinh viên nghiên cứu khoa học thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn như là:

Thứ nhất, Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018) với tổng số sinh viên trong cả nước năm học 2016-2017 là 1.767.879 sinh viên, năm học 2017-2018 số lượng là 1.707.025 sinh viên. Năm học 2018-2019, số lượng sinh viên đại học chính quy là 1.443.000, trung cấp sư phạm là 11.700 và cao đẳng sư phạm là 44.500 (Thanh Xuân và Đức Trung, 2018). Năm học 2019-2020, cả nước có hơn 24 triệu học sinh, sinh viên, tăng hơn 500.000 so với năm học trước. Trong đó, quy mô sinh viên đại học chính quy có hơn 1,5 triệu sinh viên (Nhật Dương, 2019). Như vậy, số lượng sinh viên là rất nhiều nhưng chỉ có khoảng gần 400 đề tài tham gia dự thi giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học. Nghĩa là con số đề tài nghiên cứu khoa học vẫn còn là ít so với số lượng sinh viên. Bên cạnh đó, cả nước có 237 trường đại học, học viện (bao gồm 172 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 31 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm (Thùy Linh, 2019) trong khi số lượng cơ sở đại học, học viện qua các năm 2017, 2018 và 2019 chỉ có cao nhất là 85 trường (vào năm 2019) có các đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện và được lựa chọn. Nghĩa là,

(6)

con số 85 trường này chiếm 35,8% so với tổng số cơ sở giáo dục đại học 237 là nhỏ, quá ít, chưa được con số 50%.

Thứ hai, đa số sinh viên đều cho rằng có những khó khăn khi nghiên cứu khoa học như là sinh viên không hiểu nghiên cứu khoa học là gì, không biết chọn đề tài và định hướng nghiên cứu, thiếu kinh nghiệm nghiên cứu, không biết chọn giáo viên hướng dẫn, không làm chủ được thời gian nghiên cứu, cơ sở vật chất và kinh phí còn hạn chế (Ngọc Thi, 2018). Theo chủ tịch hội sinh viên nhiều trường đại học, học viện, cao đẳng cho rằng một số cơ sở vẫn quan niệm nghiên cứu khoa học của sinh viên là hoạt động phong trào mà đã là phong trào thì rất dễ nảy sinh hiện tượng chạy theo thành tích, làm đối phó, có tính thời điểm và chất lượng không cao.

Ngoài ra, đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên được hỗ trợ kinh phí không đáng kể, sinh viên phải tự lo. Nếu được hỗ trợ kinh phí thì thủ tục cũng còn nhiều phức tạp, số tiền chi cho việc đi lại để thực hiện đề tài còn nhiều hơn so với số tiền hỗ trợ mà sinh viên nhận được (Vĩnh Khang, 2015).

3.3. Nguyên nhân

Từ những hạn chế, khó khăn trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đến công tác nghiên cứu khoa học của sinh viên với số lượng ít là do:

Một là, bản thân sinh viên thiếu năng động và tự lập trong quá trình học tập, hài lòng với những kiến thức đã được giảng viên trang bị sẵn và ít có nhu cầu khám phá hay tạo ra kiến thức ở chiều sâu hơn.

Hai là, cơ sở vật chất trang thiết bị vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu của sinh viên để thực hiện nghiên cứu khoa học.

Ba là, kinh phí hỗ trợ nghiên cứu khoa học của sinh viên là quá ít, thường là không đủ so với số tiền mà sinh viên phải bỏ ra để thực hiện.

Bốn là, sự tương tác giữa nhà trường và doanh nghiệp, xã hội mặc dù đã được chú trọng nhưng vẫn chưa có nhiều chuyển biết về kết quả, sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp xúc với một số cơ quan để nghiên cứu thực tế, xin số liệu, xin phỏng vấn chuyên gia,…

4. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới theo cách tiếp cận AUN-QA

Thứ nhất, tăng cường định hướng nhận thức của sinh viên để nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Nhà trường chú trọng có thêm nhiều chính sách trong việc nâng cao nhận thức của sinh viên như hội sinh viên trường cần có thêm nhiều cuộc thi về nghiên cứu khoa học, mở các câu lạc bộ và thu hút sinh viên tham gia câu lạc bộ. Nhà trường tặng giấy khen, và ưu tiên những sinh viên đã có công trình nghiên cứu khoa học thì không cần phải làm khóa luận tốt nghiệp hoặc giữ lại trường với những sinh viên có công trình nghiên cứu hoặc chuyển tiếp sinh viên lên học ở các bậc cao hơn. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học gắn với hoạt động nghiên cứu

(7)

khoa học trong nhà trường để sinh viên sớm tiếp cận với kỹ năng nghiên cứu. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần phải gợi mở vấn đề, tăng cường cho sinh viên thực hiện các công trình nhỏ như tiểu luận để sinh viên có niềm đam mê nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần có thêm các buổi tọa đàm với những diễn giả chính là các bạn sinh viên đã có thành tích trong nghiên cứu khoa học để chia sẻ với những sinh viên khác trong việc thực hiện nghiên cứu khoa học.

Thứ hai, thu hút nhiều nguồn đầu tư, tăng thêm kinh phí hỗ trợ sinh viên thực hiện nghiên cứu khoa học, giảm thủ tục hành chính trong việc quyết toán kinh phí. Nhà trường cần tăng thêm nguồn kinh phí cho sinh viên trong thực hiện đề tài, nếu có thể thì cho sinh viên nhận ½ kinh phí hỗ trợ này ngay sau khi sinh viên đã bảo vệ thành công đề cương. Đặc biệt, các khâu thủ tục hành chính nhà trường nên cắt giảm thủ tục để sinh viên thực hiện nhanh chóng các thủ tục này. Huy động các nguồn lực của xã hội, doanh nghiệp để tạo sân chơi khoa học cho sinh viên, tạo môi trường cho các em được sáng tạo, tư duy trong nghiên cứu khoa học và học tập.

Thứ ba, nâng cao trình độ ngoại ngữ của sinh viên. Việc nâng cao trình độ ngoại ngữ của sinh viên là bản thân sinh viên tự ý thức học tập để đáp ứng yêu cầu của chuẩn đầu ra cũng như việc làm sau khi ra trường. Để thực hiện thành công công trình nghiên cứu khoa học thì sinh viên cũng cần tự nâng cao trình độ ngoại ngữ của mình.

Thứ tư, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị. Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị như phòng thí nghiệm, phòng câu lạc bộ nghiên cứu khoa học, phòng diễn án,… để sinh viên thuận lợi hơn trong việc thực hiện các công trình nghiên cứu.

Thứ năm, có chính sách hỗ trợ sinh viên trong quá trình thực hiện công trình nghiên cứu khoa học đáp ứng nhu cầu xã hội. Để hỗ trợ sinh viên trong việc thực hiện thì đã có sự gắn kết giữa người hướng dẫn và sinh viên, tuy nhiên cũng có những công trình sinh viên gặp khó khăn trong việc tiếp xúc với doanh nghiệp, cơ quan để xin số liệu,…

thì nhà trường cần có những giải pháp hỗ trợ cho sinh viên kịp thời.

Thứ sáu, đẩy mạnh mô hình hợp tác giữa nhà trường với doanh nghiệp. Đây là giải pháp quan trọng hiện nay khi thực hiện đánh giá theo AUN-QA. Nhà trường cần gắn kết với doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo, khảo sát ý kiến của doanh nghiệp về nhu cầu mong muốn của họ đối với các cơ sở đào tạo sinh viên, chủ động giới thiệu với các doanh nghiệp những chương trình, đề tài đem lại lợi ích trực tiếp cho doanh nghiệp; cử giảng viên và sinh viên đến học tập tại các doanh nghiệp, phối hợp với hội doanh nghiệp để tổ chức những cuộc thi về sáng tạo, khởi nghiệp.

Nhà trường cũng nên mời đại diện lãnh đạo của doanh nghiệp tham gia hội đồng nghiệm thu đề tài; đẩy mạnh tăng cường mạng lưới liên kết với cựu sinh viên đặc biệt là cựu sinh viên là các doanh nhân. Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo và khách mời chủ yếu là đại diện các doanh nghiệp tham gia.

(8)

5. Kết luận

Với những yêu cầu của hội nhập quốc tế cùng với cách tiếp cận theo AUN-QA đòi hỏi một lần nữa các cơ sở giáo dục đại học cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên. Đây là con đường nhanh nhất để nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo đại học đáp ứng yêu cầu hội nhập và đổi mới theo cách tiếp cận AUN-QA. Vì vậy, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng chiến lược và thực hiện đồng bộ có hiệu quả các giải pháp để nhằm thu hút sinh viên nghiên cứu khoa học. Qua đó, tạo ra được các sáng chế khoa học đóng góp cho xã hội, giúp cho cơ sở giáo dục đại học đáp ứng được các bộ tiêu chuẩn kiểm định/đánh giá chất lượng trong nước và nước ngoài cấp cơ sở đào tạo/chương trình đào tạo và ngày càng phát triển hơn trong xu hướng hội nhập và phát triển giáo dục như hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Tờ gấp giáo dục đào tạo. <https://moet.gov.vn/thong- ke/Pages/to-gap.aspx?ItemID=5875>

Ngọc Thi (2018). Hội nghị nghiên cứu khoa học sinh viên: thách thức và giải pháp.

<http://www.vanlanguni.edu.vn/hoat-dong-sinh-vien/1312-hoi-nghi-nghien-cuu khoa-hoc-sinh-vien-thach-thuc-va-giai-phap>

Nhật Dương (2019). Hơn 24 triệu học sinh, sinh viên chính thức khai giảng năm học mới. < http://vneconomy.vn/hon-24-trieu-hoc-sinh-sinh-vien-chinh-thuc-khai- giang-nam-hoc-moi-20190905101349465.htm>

Phạm Quốc Trụ (2011). Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. <

http://www.nghiencuubiendong.vn/toan-cau-hoa-hoi-nhap-kinh-te/2014-hoi- nhap-quoc-te-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien>

Thanh Xuân, Đức Trung (2018). Năm học 2018 – 2019 cả nước có hơn 23,5 triệu học sinh, sinh viên. <https://www.nhandan.com.vn/giaoduc/item/37554202-infograph ic-nam-hoc-2018-2019-ca-nuoc-co-hon-23-5-trieu-hoc-sinh-sinh-vien.html>

Thùy Linh (2019). Tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm có trình độ đại học trở lên giảm mạnh.

<https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/ty-le-that-nghiep-o-nhom-co-trinh-do- daihoc-tro-len-giam-manh-post201464.gd>

Thùy Linh (2019). Những con số nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam.

<https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhung-con-so-noi-bat-cua-giao-duc-dai- hoc-viet-nam-post201566.gd>

Trung tâm Truyền thông Giáo dục (2017). Lễ trao giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2017. <https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID

=5232>

(9)

Trung tâm Truyền thông Giáo dục (2018). Lễ trao giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2018. <https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID

=5655>

Trung tâm Truyền thông Giáo dục (2019). Lễ trao giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2019. <https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID

=6383>

Vĩnh Khang (2015). Thu hút sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học.

<https://www.nhandan.com.vn/giaoduc/item/25298002-thu-hut-sinhvien%C2%

A0 tham-gia-nghien-cuu-khoa-hoc.html>

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Kết quả phân tích yêu cầu của Chương trình tổng thể giáo dục phổ thông (dự thảo, 7/2015) *1+ cho thấy GV THPT cần có các năng lực:Phát triển

- Thu thập, tổ chức và bảo quản dữ liệu lớn: chương trình đào tạo phải trang bị cho người học các phương pháp và công cụ thu thập, đánh giá và chọn lọc các loại dữ

Để chuẩn bị đăng ký học tập cho một học kỳ, mỗi sinh viên học cùng lúc hai chương trình cần tìm hiểu các thông tin chi tiết của cả hai chương trình về chương trình

Những năm gần đây, trong bối cảnh khó khăn về công tác tuyển sinh của các trường Đại học, cao đẳng trên cả nước, tuy nhiên chỉ tiêu đào tạo và số lượng

Về nội dung chương trình, cả sinh viên và giảng viên đều có sự đánh giá khá tương đồng ở mức độ tốt và rất tốt với tỉ lệ trên 80%; Về phương pháp giảng dạy của GV

Điểm đánh giá của SV cho từng nhóm chỉ báo được sử dụng tính điểm trung bình cho tác động của ý kiến phản hồi đến HĐGD nói chung và tác động đến các thành tố của quá trình dạy học nói

* Cách thực hiện biện pháp: Điều chỉnh chuẩn năng lực đánh giá giáo dục cho sinh viên dựa trên các cách tiếp cận khác nhau: Xem xét tất cả các yếu tố và hoạt động của giáo viên tiểu học

Gợi ý chính sách quản trị chất lượng thông qua kết quả đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo Tiếp cận các cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm đánh giá mức độ đạt