• Không có kết quả nào được tìm thấy

Địa danh là tên gọi của đơn vị hành chính

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Chia sẻ "Địa danh là tên gọi của đơn vị hành chính"

Copied!
1
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

XU HƯỚNG ĐÔ THỊ HÓA QUA ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO

CỦA HỆ THỐNG ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH VEN BIỂN BÌNH – TRỊ - THIÊN 1.Đặt vấn đề

1.1 Địa danh là một bộ phận đặc biệt của từ vựng, có nguồn gốc và ý nghĩa riêng.

Ở Việt Nam, khái niệm địa danh đã được các nhà nghiên cứu xác định. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã định nghĩa: “Địa danh là tên đất, tên địa phương (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố,..), tên điểm, vùng kinh tế (khu công nghiệp, khu nông nghiệp,..), tên các quốc gia, châu lục, núi non, sông hồ, vũng vịnh,… ghi lại được trên bản đồ”. [Nxb Đà Nẵng, 2009, tr.416]. Gần với các quan điểm trên, Nguyễn Văn Âu cũng cho rằng: “Địa danh là tên đất, gồm tên sông, núi, làng mạc,…hay là tên các địa phương, các dân tộc” [Địa danh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1993, tr.5]. Với cách nhìn mở rộng nội hàm của khái niệm địa danh, Lê Trung Hoa định nghĩa: “Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ.” [Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 1991].

Qua một số định nghĩa về địa danh như trên, có thể khái quát về khái niệm địa danh như sau: Địa danh là tên gọi của đơn vị hành chính (như tỉnh, huyện, xã,…), của vùng lãnh thổ (như thôn, làng, xóm,…), của địa hình tự nhiên (như sông, núi, đồi, gò, bến, bãi,…), hay của công trình xây dựng (như cầu, cống, đình, chùa,…).

1.2 Từ việc quan niệm địa danh như trên, từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đã nêu ra các cách phân loại địa danh. Trên đại thể, có hai hướng phân loại chính:

- Hướng thứ nhất phân loại dựa vào đối tượng địa lí. Theo hướng này, người ta sẽ phân chia thành 4 loại địa danh: Địa danh chỉ địa hình tự nhiên (như tên sông, núi, đồi, gò, kênh, rạch,…), địa danh chi đơn vị hành chính (như tên tổ, ấp, thôn xã, huyện, tỉnh,…), địa danh chỉ vùng lãnh thổ ( như tên làng, xóm,….), địa danh chỉ công trình xây dựng (như tên cầu cống, đình, chùa,…).

- Hướng thứ hai phân loại dựa vào ngữ nguyên (nguồn gốc ngôn ngữ). Theo hướng này, người ta phân chia địa danh tiếng Việt thành 3 loại: Địa danh thuần Việt (như tên làng Ho, Kẻ Nại, Kẻ Lái, Vực Nồi…), địa danh vay mượn (chủ yếu là gốc Hán) (như tên các làng Lý Hòa, Lệ sơn, Cảnh Dương,…), địa danh ngôn ngữ các dân tộc thiểu số (như tên các huyện Đắc Krông, Chư Sê, Chư Pả,…).

Do đó, địa danh trở thành “vật hóa thạch”, một loại di chỉ khảo cổ học, ghi lại những mốc trong dòng thời gian mà “mỗi địa danh là một đài kỉ niệm”, “một tấm bia bằng ngôn ngữ độc đáo về thời đại mà nó chào đời” (Superanxki).

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Câu 7: Địa danh nào sau đây đúng với tên gọi của vùng núi có các bộ phận: phía đông là dãy núi cao, đồ sộ; phía tây là các dãy núi trung bình; ở giữa là các dãy núi

Câu 7: Địa danh nào sau đây đúng với tên gọi của vùng núi có các bộ phận: phía đông là dãy núi cao, đồ sộ; phía tây là các dãy núi trung bình; ở giữa là các dãy