• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đánh giá tác dụng của OS35 trên hành vi tình dục trên chuột cống

Trong tài liệu LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC (Trang 68-72)

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.4. Phương pháp nghiên cứu

2.4.4. Đánh giá tác dụng của OS35 trên hành vi tình dục trên chuột cống

2.4.4. Đánh giá tác dụng của OS35 trên hành vi tình dục trên chuột cống

- Khi cho giao phối với chuột đực, những con cái không có hành vi chịu đực (như uốn cong lưng khi bị kích thích) sẽ bị loại.

2.4.4.3. Giai đoạn huấn luyện (3 đợt)

- Nhốt mỗi chuột đực vào 1 chuồng riêng

- 5 phút sau, đưa 1 chuột cái gây động dục nhân tạo vào.

- Nếu chuột cái không có hành vi chịu đực thì thay chuột cái khác.

- Đánh giá các hành vi của chuột đực bao gồm: nhảy cái (mounting), thâm nhập âm đạo (intromission), xuất tinh (ejaculation).

- Nếu chuột đực không thâm nhập âm đạo trong vòng 30 phút thì dừng test và coi như chuột đực đó không có khả năng hoạt động tình dục.

- Các hành vi tình dục của chuột được xác định như sau:

+ Hành vi nhảy: thường được thực hiện vào thời điểm đầu của loạt giao cấu. Khi chuột đực bắt đầu gặp chuột cái, chuột đực sẽ tiếp cận với chuột cái từ phía sau, trèo lên lưng chuột cái và đẩy nhanh, nông khung chậu về phía chuột cái với tần số 19 - 23 Hz trong vòng 30ms, sau đó con đực rời khỏi lưng con cái và liếm cơ quan sinh dục [77],[78],[107]. Như vậy, dấu hiệu để nhận biết hành vi nhảy là diễn ra sớm và hoạt động đẩy khung chậu của chuột đực về phía âm đạo chuột cái diễn ra nhẹ, nông, ngắn.

+ Hành vi thâm nhập âm đạo: trong quá trình tiếp cận, nếu con đực tìm thấy âm đạo của chuột cái, nó sẽ bất ngờ đẩy khung chậu sâu hơn và đút dương vật vào âm đạo trong vòng 200 - 300ms. Sau đó, con đực ngừng đẩy khung chậu, rút nhanh, mạnh ra khỏi con cái và luôn luôn liếm dương vật, con đực sẽ không bao giờ tiếp cận trở lại ngay sau khi thâm nhập [77],[78],[107].

Như vậy, dấu hiệu để nhận biết hành vi thâm nhập âm đạo là hoạt động đẩy khung chậu của chuột đực về phía âm đạo chuột cái diễn ra mạnh hơn, sâu hơn và kéo dài hơn hành vi nhảy.

+ Hành vi xuất tinh: sau vài lần thâm nhập vào âm đạo, con đực sẽ xuất

tinh. Xuất tinh được đặc trưng bởi sự đẩy khung chậu sâu và dài hơn (750 - 2000 ms) và rời khỏi con cái chậm hơn, sau khi xuất tinh, con đực vẫn còn ở trên lưng con cái trong vòng 1 - 3 s [77],[78],[107]. Như vậy, hành vi xuất tinh dễ dàng được nhận biết bởi thời gian diễn ra chậm và kéo dài hơn, sau khi xuất tinh, con đực vẫn còn ở trên lưng con cái 1 - 3s mới chịu rời xuống.

- Chuột đực và chuột cái được làm quen (huấn luyện) với test hành vi tình dục trong 3 đợt ghép, mỗi đợt cách nhau 4 ngày.

Mục đích của các đợt làm quen này nhằm khởi động phản xạ giao cấu, phát huy tối đa vai trò của hệ thần kinh và nội tiết đối với hành vi tình dục của chuột, đồng thời giúp các nghiên cứu viên làm quen với việc quan sát hành vi tình dục ở chuột.

Trong quá trình ghép đôi đực - cái, quan sát và đánh giá các chỉ số sau [77],[78],[107]:

- MF (số lần nhảy - Mounting Frequency): là số lần con đực nhảy lên lưng con cái trong một loạt giao cấu.

- ML (thời gian nhảy - Mounting Latency): là khoảng thời gian từ khi con đực gặp con cái đến lần nhảy đầu tiên;

- IF (số lần thâm nhập âm đạo- Intromission Frequency): là số lần dương vật con đực thâm nhập vào âm đạo con cái trong một loạt giao cấu;

- IL (thời gian đạt đến thâm nhập- Intromission Latency): là khoảng thời

gian từ khi con đực gặp con cái đến lần thâm nhập âm đạo đầu tiên;

- EL (thời gian đạt đến xuất tinh- Ejaculation Latency): là khoảng thời gian từ lần nhảy đầu tiên (hoặc thâm nhập âm đạo đầu tiên- nếu không có nhảy) đến lần xuất tinh đầu tiên;

- PEI (thời gian sau xuất tinh- Post Ejaculation Interval): là khoảng thời gian từ sau khi xuất tinh lần đầu đến lần nhảy hoặc thâm nhập âm đạo tiếp theo (nếu không có nhảy) để bắt đầu một loạt giao cấu mới.

Hình 2.2. Các chỉ số đánh giá hành vi tình dục ở chuột cống đực Thử nghiệm kết thúc khi ghi được PEI, hoặc khi ML, IL > 15 phút; EL

> 30 phút; PEI > 15 phút. Những chuột xác định được chỉ số PEI được xem là đã hoàn thành test hành vi.

Để đảm bảo hoạt động giao cấu của chuột diễn ra một cách tự nhiên và không bị ảnh hưởng bởi người quan sát, quá trình quan sát được ghi lại bằng webcam nối với máy tính, sau đó sẽ được nghiên cứu viên đọc và xử lý kết quả, tính ra các chỉ số nghiên cứu.

2.4.4.4. Giai đoạn sàng lọc (4 đợt)

- Chuột được huấn luyện qua 3 đợt, sau đó tiến hành 4 test sàng lọc để phân loại chuột đực.

- Sau 4 test sàng lọc, cho điểm chuột đực và phân loại thành những chuột đạt và không đạt.

- Những chuột không hoàn thành ít nhất 1 test sàng lọc được xếp vào nhóm chuột không đạt.

2.4.4.5. Giai đoạn đánh giá tác dụng của thuốc thử

- Nhóm chuột không đạt được chia đều ngẫu nhiên như sau:

+ Lô 1 (n = 9): uống dung môi pha thuốc với thể tích 10ml/kg

+ Lô 2 (n = 7): uống sildenafil liều 10 mg/kg 30 phút trước khi ghép với chuột cái

+ Lô 3 (n = 8): uống OS35 liều 150mg/kg/ngày 15 phút trước khi ghép với chuột cái

- Chuột đực được ghép đôi với chuột cái sau khi uống thuốc thử hoặc dung môi.

Quan sát hành vi tình dục, ghi lại các chỉ số nghiên cứu và so sánh các lô với nhau.

2.4.5. Đánh giá tác dụng của OS35 trên chuột cống trắng đực bị gây suy

Trong tài liệu LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC (Trang 68-72)