• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm khối u gan và phân bố bệnh nhân ở các phương pháp

Trong tài liệu UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN (Trang 120-124)

Chương 4. BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu

4.1.2. Đặc điểm khối u gan và phân bố bệnh nhân ở các phương pháp

lý ung thư gan, mỗi nhân viên y tế cần tư vấn bệnh nhân việc kiểm tra định kỳ ở những người có yếu tố nguy cơ cao như viêm gan mạn hoặc xơ gan cần được quan tâm nhiều hơn và bản thân bệnh nhân tuân thủ và thực hiện tốt việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của mình, thực hiện định kỳ 3, 6 tháng hay một năm/lần để phát hiện sớm u gan, ung thư gan [136].

4.1.2. Đặc điểm khối u gan và phân bố bệnh nhân ở các phương pháp

như sau: Bệnh nhân có 1 khối u chiếm ưu thế, 44 trường hợp chiếm tỉ lệ 88%, bệnh nhân có 2 khối u có 4 trường hợp chiếm tỉ lệ 8%, bệnh nhân có 3 khối u có 2 trường hợp chiếm tỉ lệ 4% [67],[136],[144],[145].

Về kích thước khối u, trong nghiên cứu của chúng tôi số u có kích thước

< 5cm chiếm tỉ lệ 51,4%; khối u có kích thước từ 5-10cm chiếm tỷ lệ 42,8%;

và kích thước khối u >10cm chiếm tỷ lệ 5,8%. Nhưng theo nghiên cứu của Lê Trọng Quý, kích thước u < 5cm hay u có kích thước >10cm chiếm tỷ lệ thấp hơn (7,7%; 21,5%), trong khi khối u có kích thước từ 5-10cm chiếm tỷ lệ cao hơn (70,8%). Sự khác nhau về tỷ lệ kích thước khối u giữa các nghiên cứu có thể là do việc quan tâm đến sức khỏe của bệnh nhân trong nghiên cứu chúng tôi được quan tâm nhiều hơn, khi có triệu chứng bất thường thì bệnh nhân đến bệnh viện kiểm tra sức khỏe, khám sàng lọc để phát hiện sớm bệnh. Tuy nhiên để khẳng định điều này cần phải được nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn và có tính đại diện hơn. Ngoài ra việc xác định chính xác số lượng khối u, kích thước, tính chất hay vị trí khối u là rất quan trọng trong việc đưa ra phương pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân, để đạt kết quả tốt nhất. Đối với những bệnh nhân có nhiều hơn 2 khối u, việc phẫu thuật cắt u là khó khăn khi u nằm ở các hạ phân thùy khác nhau. Việc điều trị bằng ghép gan đối với những bệnh nhân này khá hợp lý, tuy nhiên chi phí điều trị ghép gan khá nhiều tiền đối với thu nhập trung bình của người dân Việt Nam. Hơn nữa nguồn gan hiến để ghép cho bệnh nhân ung thư gan còn hạn chế. Ngoài ra ghép gan là một kỹ thuật cao chỉ thực hiện được ở một vài bệnh viện lớn trong cả nước.

Trong ung thư biểu mô tế bào gan, đặc điểm của khối u gan và đánh giá chức năng gan cũng là biến số quan trọng trong việc tiên lượng HCC và dựa vào đó để đưa ra phương pháp điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân ung thư gan. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã áp dụng nhiều tiêu chí để đánh giá chức năng gan. Tuy nhiên các hệ thống phân loại đều có những ưu nhược điểm

riêng biệt, có những hạn chế nhất định và đến nay chưa có một hệ thống phân chia nào là hoàn hảo và cũng chưa có đồng thuận về sử dụng hệ thống phân loại nào để đánh giá giai đoạn bệnh trong thực hành lâm sàng cũng như sử dụng trong nghiên cứu điều trị ung thư gan trên thế giới. Mặc dù có nhiều Hội gan mật như Hội Gan mật Hoa Kỳ, Hội Gan mật châu Âu, khuyến cáo sử dụng hệ thống phân chia giai đoạn theo Barcelona là phù hợp trên hết. Ở nghiên cứu của chúng tôi sử dụng hệ thống phân chia giai đoạn Child-Pugh và Okuda.

Phân độ chức năng gan được chia làm 3 phân độ gồm phân độ Child A mức độ nhẹ, thời gian sống trung bình là 37 tháng, phân độ Child B mức độ trung bình, thời gian sống trung bình 16 tháng, phân độ Child C mức độ nặng thời gian sống trung bình 7 tháng. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân phân độ Chlid C. Bệnh nhân ở giai đoạn trước điều trị theo phân độ Child A có 61 trường hợp chiếm tỷ lệ 87,1%; Child B có 9 trường hợp chiếm tỉ lệ 12,9%. Sau điều trị phân độ Child A có tỷ lệ 85,8%; còn phân độ Child B có tỷ lệ 12,8% và Child C chiếm tỷ lệ 1,4%. Mặc dù các bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp khác nhau nhưng về số lượng và tỷ lệ về đánh giá chức năng gan ở những bệnh nhân sau điều trị khác so với trước điều trị cả Child-Pugh A và Child-Pugh C, tuy nhiên sự khác nhau này không có ý nghĩa thống kê. Lý do này có thể do thời gian đánh giá sau một tháng điều trị là chưa đủ dài, hơn nữa số lượng bệnh nhân điều trị theo từng phương pháp ở nghiên cứu của chúng tôi còn ít. Theo nghiên cứu của Đào Việt Hằng, trong nhóm bệnh nhân xơ gan tỷ lệ phân độ Child A chiếm tỷ lệ 87,7%; theo phân độ Child B chiếm tỷ lệ 10%, tỷ lệ không xơ gan là 2,3%. Theo nghiên cứu của Triệu Triều Dương và cộng sự, tỉ lệ bệnh nhân có Child-Pugh A chiếm ưu thế 98,09% [146]. Theo Thái Doãn Kỳ phân độ Child A chiếm tỷ lệ đa số 94,3%;

tỷ lệ phân độ Child B chiếm tỷ lệ 5,7%; theo nghiên cứu của Lê Trọng Quý, Child A chiếm tỷ lệ 55,4%; Child B chiếm tỷ lệ 32,3%; Child C chiếm tỷ lệ

12,3%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự các tác giả này về tỷ lệ phân độ chức năng gan Child-Pugh A và B. Theo nghiên cứu của Osaki Y., Nishikawa H., phân độ Child-Pugh A chiếm tỉ lệ 65,4%; Child-Pugh B chiếm tỉ lệ 27,9% và Child-Pugh C chiếm tỷ lệ 6,7% [147]. Trong nghiên cứu của chúng tôi phân chia giai đoạn theo Okuda I chiếm tỉ lệ 77,1%;

Okuda II 22,9%, trước và sau điều trị số bệnh nhân Okuda I và Okuda II không thay đổi số lượng bệnh nhân. Tương tự như nghiên cứu của Thái Doãn Kỳ, Okuda I chiếm ưu thế 78,1%. Theo nghiên cứu của Osaki, Child-Pugh A chiếm tỉ lệ 65,4%; Child-Child-Pugh B là 27,9%. Theo tác giả Kumada và cộng sự trong 104 bệnh nhân HCC, Child- Pugh A chiếm 79%, Child-Pugh B chiếm 17%, Child-Pugh C chiếm 4% [11],[63],[116],[136],[144]. Trong chẩn đoán ung thư gan có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán, chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn của Bộ Y tế để chọn những bệnh nhân đưa vào nghiên cứu. Trong 70 bệnh nhân ung thư gan có 32 bệnh nhân được chẩn đoán bằng mô bệnh học, chiếm tỷ lệ 45,7%; chẩn đoán ung thư gan dựa vào tiêu chuẩn AFP >

400ng/mL và CT Scan có 33 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 47,1%; và tiêu chuẩn AFP > 20ng/mL + nhiễm HBsAg và/hoặc HCV + CT Scan có 5 trường hợp chiếm 7,2%. Theo tác giả Đậu Quang Liêu trong 45 trường hợp được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan có đến 36 trường hợp được chẩn đoán bằng chỉ điểm AFP, chẩn đoán hình ảnh chiếm tỉ lệ 80% và 9 trường hợp được chẩn đoán bằng mô bệnh học chiếm tỉ lệ 20% [139]. Việc lựa chọn phương pháp điều trị đối với bệnh nhân ung thư gan hầu hết đều dựa vào đánh giá chức năng gan, tính chất khối u, số lượng khối u gan. Ở 70 bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi có 29 bệnh nhân được điều trị theo phương pháp RFA chiếm tỉ lệ 41,4%; bệnh nhân điều trị theo phương pháp cắt gan có 26 trường hợp, chiếm tỉ lệ 37,1% và điều trị theo phương pháp TOCE có 15 trường hợp, chiếm tỉ lệ thấp hơn (21,5%).

4.1.3. Tỷ lệ nhiễm HBV, HCV ở nhóm HCC và nhóm viêm gan mạn

Trong tài liệu UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN (Trang 120-124)