• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm tổn thương giải phẫu lao cột sống cổ trên hình ảnh

Chương 4. BÀN LUẬN

4.3. Đặc điểm tổn thương giải phẫu lao cột sống cổ trên hình ảnh

- Ở giai đoạn sớm, biểu hiện sớm nhất trên XQ là dấu hiệu thưa xương, khi có tổn thương từ 30% trở lên ở thân đốt sống và tăng mờ mô mềm trước CSC gợi ý đến LCSC [41]. Hẹp khoang gian đốt sống (xẹp đĩa đệm) và bờ sụn tiếp tổn thương dạng nham nhở thấy được trên XQ sau 2 đến 3 tuần xuất hiện triệu chứng. Bằng chứng phá hủy thân đốt sống chỉ thấy được trên XQ quy ước khi tổn thương từ 50% thân đốt sống trở lên. Các biến dạng cột sống thường gặp nhưng muộn hơn, khi đốt sống bị phá hủy nhiều gây xẹp. Việc phá hủy đốt sống C1, thân C2, lồi cầu chẩm hoặc mỏm răng có thể gây di lệch và mất vững nghiêm trọng. Khi có sự phá hủy thân đốt sống cổ thấp gây biến dạng gù vùng cổ có thể thấy được trên lâm sàng nhưng thường rất muộn. Dấu

hiệu tạo hốc ở bờ trước thân đốt sống bị viêm, dấu hiệu TT tạo hốc dưới dây chằng dọc trước. Một khối áp xe cạnh cột sống có calci hóa trong ổ áp xe thương gặp ở lao cột sống [42].

- Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 31 bệnh nhân đều có biểu hiện chèn ép tủy cổ, BN ở giai đoạn bệnh đang tiến triển phá hủy thân đốt sống nhiều, gây xẹp thân đốt sống gây nên biến chứng gù biến dạng cột sóng nên khó xác định vị trí tổn thương ban đầu. Có 1 bệnh nhân không phát hiện tổn thương đốt sống trên XQ thường quy nhưng có biểu hiện liệt hoàn toàn tứ chi, bí đái phải đặt dẫn lưu niệu đạo bàng quang. Trên phim CLVT và CHT phát hiện tổn thương ở mảnh sống (lamina) và gai sau, có áp xe trong ống sống gây hẹp ống sống nặng. Số đốt sống tổn thương phát hiện được trên XQ thường quy trung bình là 2,13 đốt trong đó tổn thương 2 đốt sống gặp nhiều nhất 80,6%. Một bệnh nhân tổn thương ở 4 đốt sống, tuy nhiên chỉ 2 đốt sống có tổn thương phá hủy > 50% thân đốt sống gây xẹp, 2 đốt sống còn lại tổn thương dạn ăn mòn, tạo hốc chưa gây xẹp đốt sống. Xẹp đĩa đệm gặp ở 30/31 bệnh nhân. Có 1 bệnh nhân không thấy xẹp đĩa đệm vì tổn thương nằm trong giữa thân đốt sống và cung sau. Đánh giá tăng mờ trước sống trên phim XQ thường quy có tăng lên, trung bình 24,2mm. 77,4% BN LCSC thấp có tăng mờ mô mềm trước sống, và 22,6% tăng mờ trước sống ở C2-C3-C4. Mức tăng mờ này không nhiều nên lý giải bệnh nhân nghiên cứu có tuổi thấp nhất 21 nên tổn thương chủ yếu chất hoại tử và xẹp đốt sống, xẹp đĩa đệm.

- Biến dạng gù vùng gặp ở 30/31(96,8%) bệnh nhân, trên phim XQ cột sống cổ thường quy chụp nghiêng phát hiện góc gù, đo góc gù vùng dễ dàng hơn, trung bình 18,90. Trong khi góc ưỡn cột sống cổ (CL = cervical lordosis) thay đổi không nhiều, chỉ gù nhẹ 3,030. He và cs (2014) báo cáo 25 bệnh nhân LCSC C3 – C7, góc gù vùng trung bình là 15,480 ; tác giả không tính góc cột sống cổ (CL) [3].

4.3.2. Tổn thương giải phẫu lao cột sống cổ trên phim CLVT

CLVT cho phép đánh giá chi tiết những TT viêm hoại tử xương sớm hơn XQ mặc dù không hiệu quả bằng CHT, xác định được sự lớn dần của áp xe cạnh sống và mô quanh sống. Những áp xe cạnh sống 2 bên có mảnh can xi bên trong thường là bệnh học của lao xương [22], [41].

Theo nghiên cứu của Ansari và cs (2013) đặc điểm tổn thương cột sống do lao trên CLVT là tiêu xương thân đốt sống bờ không đều, có xương xơ, xẹp đĩa đệm, mất tính liên tục của bờ xương, có mảnh xương hoại tử trong áp xe [41].

Jain R và cs (1993) nghiên cứu CLVT 30 bệnh nhân lao cột sống, tác giả thấy đặc điểm chất hoại tử cạnh sống gặp ở tất cả các bệnh nhân, tiêu xương rõ ở dưới vỏ xương kèm xơ vỏ xương, xẹp đĩa đệm luôn kèm với phá hủy thân đốt sống, mảnh xương chết trong áp xe hoặc chất hoại tử gặp ở 66%

bệnh nhân [132].

Nghiên cứu của chúng tôi, số đốt sống tổn thương trung bình là 2,26 đốt, nhiều nhất là tổn thương 2 tầng 23 bệnh nhân (74,2%), có 1 (3,2%) bệnh nhân phát hiện tổn thương 5 đốt sống. Đặc điểm tổn thương trên CLVT; xẹp đốt sống do phá hủy xương dạng hoại tử, có chất hoại tử hoặc áp xe cạnh sống 96,8%, có mảnh xương hoại tử 96,8%.

4.3.3. Tổn thương giải phẫu lao cột sống cổ trên phim CHT

Nghiên cứu của Gehlot và cs [133] về hình ảnh CHT bệnh nhân LCS, có áp xe cạnh sống chiếm 98,5% các trường hợp, tổn thương 2 thân đốt sống 60%, dạng tạo hốc (ăn mòn) thân đốt sống 2,85%, hẹp khoang gian đốt sống (xẹp đĩa đệm) 92,8%. Tác giả kết luận, CHT là kỹ thuật hình ảnh có giá trị nhất trong phát hiện bệnh lý LCS cũng như sự lan tràn của bệnh, đồng thời định hướng cho các phẫu thuật viên chọn cách tiếp cận ổ tổn thương lao trước khi phẫu thuật. Mặt khác theo Jain và cs [48] số đốt sống TT phát hiện trên XQ thường quy trung bình là 2,61 đốt trong khi trên CHT là 3,2 đốt sống.

Như vậy, những TT sớm lan tràn ở thân đốt sống phát hiện trên CHT cao hơn trên XQ thường quy là 34,7%.

Currie và cs mô tả đặc điểm điển hình của TT lao ở cột sống dựa vào CHT, đó là nhiễm trùng bắt đầu từ bờ trước thân đốt sống nơi tiếp giáp với sụn tiếp. Ở vùng này các tiểu động mạch gấp lại đột ngột nên cho phép vi khuẩn nghẽn lại tại đây và hoạt động tạo thành áp xe. Do đó dấu hiệu sớm nhất trên CHT cột sống là phù sụn tiếp, phù tủy xương gặp 100% các trường hợp hay giảm cường độ tín hiệu trên T1W và tăng tín hiệu trên T2W [48],[47].

Tao Shi và cs (2016) [30] báo cáo 967 BN lao cột sống, số đốt sống TT như sau: 1 đốt sống 11,17%, 2 đốt sống 56,15% và trên 3 đốt sống 32,68%

với đặc điểm TT hẹp khoang gian đốt sống 86,35%, có áp xe cạnh sống 55,64%, áp xe trước sống 8,17%, chèn ép ngoài màng cứng 33,3%, tổn thương ăn mòn 3,41%. Áp xe do lao cột sống nhiều hay ít phụ thuộc vào tuổi mắc bệnh, tuổi càng trẻ (≤ 10 tuổi) do hoạt động hệ miễn dịch mạnh nên thường có nhiều áp xe và ngược lại, tuổi càng cao thì chủ yếu là xương viêm và chất hoại tử, trung bình có áp xe chiếm từ 60 – 84% các trường hợp [21].

Theo Frel và cs (2017) TT 2 đốt sống 75%, trên 2 đốt sống 25%, giảm cường độ tín hiệu thân đốt sống 87,5%, tín hiệu hỗn hợp 12,5% (ảnh T1WI) và ở đĩa đệm, tín hiệu đồng nhất 100%, giảm tín hiệu 0% [116].

Kim và cs (2016) có áp xe cạnh sống 75% và 53% áp xe ngoài màng cứng, 70% TT 1 – 2 đốt sống và 30% TT trên 3 đốt sống [28]. TT thường ở bờ sụn tiếp 2 đốt sống liền kề gây thiểu dưỡng đĩa đệm và xẹp đĩa đệm, hoại tử đĩa đệm.

Nghiên cứu của chúng tôi, tổn thương 2 đốt sống trên CHT là 74,2%

nhưng phát hiện được những tổn thương dạng sớm nhất ở đốt sống liền kề đốt tổn thương. Đặc điểm tổn thương có áp xe hoặc chất hoại tử cạnh sống và ngoài màng cứng nhiều nhất 77,4%; chèn ép tủy trên CHT là 100%. Kết quả này cũng tương đồng với báo cáo của các tác giả trên.

4.4. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật lao cột sống cổ qua đường mổ