• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc điểm sự thay đổi các chỉ số lâm sàng của hội chứng chuyển hóa và

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.2. Đặc điểm hội chứng chuyển hóa và các rối loạn liên quan ở bệnh nhân

4.2.1. Đặc điểm sự thay đổi các chỉ số lâm sàng của hội chứng chuyển hóa và

Theo nghiên cứu của tác giả Sugawara, N. Yasui-Furukori, N. Yamazaki, M. và cộng sự, khi nghiên cứu trên 14669 bệnh nhân tâm thần phân liệt nội trú và 14669 bệnh nhân tâm thần phân liệt ngoại trú tác giả thu được kết quả là khoảng 18,5% bệnh nhân nội trú nói là có thói quen tập thể dục hàng ngày, 13,1% tập một lần một tuần, 13,4% tập nhiều hơn một lần một tuần, và 55,0%

là không tập thể dục bao giờ và tỉ lệ là 20,2%, 14,8%, 20,2% và 44,8% đối với bệnh nhân ngoại trú. Tỉ lệ này cao hơn so với tỉ lệ của chúng tôi [104].

Nguyên nhân của sự hạn chế các hoạt động thể lực này có thể là do các yếu tố tâm lý xã hội như thất nghiệp hoặc sự cô lập về xã hội do các chức năng về hoạt động xã hội của người bệnh bị suy giảm và tăng thời gian ngồi một chỗ hoặc tình trạng tăng cân có thể là một lý do quan trọng khiến người bệnh không muốn vận động thể lực. Một lý do khiến người bệnh có thể có ít hoạt động thể lực là do tác dụng của thuốc an thần kinh gây mệt mỏi buồn ngủ.

Tỉ lệ vận động tập thể dục thu được trong nghiên cứu này của chúng tôi tương đối thấp, hầu như những bệnh nhân của chúng tôi không có các hoạt động về thể lực rèn luyện thể thao. Đó có thể là do đặc điểm người bệnh tâm thần phân liệt có sự mặc cảm không muốn ra ngoài tiếp xúc hoặc do uống thuốc gây mệt mỏi buồn ngủ.

4.2. ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA VÀ CÁC RỐI LOẠN

kg, 54,39±7,59 kg, 55,27±7,70 kg, mức tăng cân ở thời điểm T1, T2, T3 là 3,35±2,18 kg, 4,77±3,02 kg, 5,65±3,35 kg so với thời điểm T0. Mức tăng cân này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Theo Wirshing [26] bệnh nhân tâm thần phân liệt được điều trị bằng olanzapin sau 10 tuần số cân nặng tăng lên là 4-4,5 kg, sau 12 tuần số cân nặng tăng lên là 5 kg. Kết quả nghiên cứu này tương đương với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Theo nghiên cứu của tác giả Salviato Balbão, M. Cecílio Hallak, J. E.

Arcoverde Nunes và cộng sự [105] khi nghiên cứu trên 30 bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị bằng olanzapin trong vòng 12 tháng, kết quả thu được ở các sau 4 tuần cân nặng tăng lên là 4 kg và sau 8 tuần cân nặng tăng lên là 7,4 kg.

Mức tăng cân này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Theo Maayan, L. và C.U. Correll [35] trong một nghiên cứu ở bệnh nhân tâm thần phân liệt khởi phát sớm được điều trị bằng olanzapin ở thời điểm 8 tuần, mức tăng cân trung bình là 6,1 kg và trong một nghiên cứu khác ở bệnh nhân tâm thần phân liệt lần đầu cũng ở lứa tuổi trẻ mức tăng cân sau 12 tuần là 7,2 kg. Kết quả tăng cân này cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi.

4.2.1.2. Tỉ lệ tăng ≥7 % tăng cân so với cân nặng thời điểm T0 của nhóm điều trị bằng olanzapin

Trong nghiên cứu này của chúng tôi, tỉ lệ tăng ≥7% cân nặng so với cân nặng khi bắt đầu nghiên cứu là 46,2% ở thời điểm T1, 61,5% ở thời điểm T2, 73,1% ở thời điểm T3.

Trong nghiên cứu trên 30 bệnh nhân chẩn đoán tâm thần phân liệt, các tác giả Salviato Balbão, M. Cecílio Hallak, J. E. Arcoverde Nunes và cộng sự [105] đã cho kết quả sau một tháng, tỉ lệ tăng cân ≥7% cân nặng ban đầu là 30%, sau 2 tháng tỉ lệ này là 63,3%. Kết quả nghiên cứu này của các tác giả tương đương kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Theo tác giả Ascher-Svanum, H.Stensland, M.Zhao, Z.Kinon [106]

nghiên cứu trên 1283 bệnh nhân tâm thần phân liệt khởi phát bệnh cấp tính lần đầu tiên điều trị bằng olanzapin thì sau thời gian 6 tuần tỉ lệ tăng cân

≥7% là 13,6%. Tỉ lệ này thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

Theo tác giả Jacob Spertus, Marcela Horvitz-Lennon, Haley Abing và cộng sự trong nghiên cứu ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị bằng olanzapin thì mức tăng cân ≥7% trọng lượng cơ thể ban đầu sau sáu tuần là 17,43% và 19,69% [107].

Theo Newcomer, J.W [46] tỉ lệ tăng cân ≥7% ở bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị bằng olanzapin là 29%.

Theo Maayan, L. and C.U. Correll [35] trong số các bệnh nhân tâm thần phân liệt giai đoạn đầu được điều trị bằng olanzapin tại thời điểm tuần thứ 12 tỉ lệ tăng cân ≥ 7% trọng lượng cơ thể là 58,9% và cũng ở một nghiên cứu khi điều trị 12 tuần ở đối tượng bệnh nhân ở độ tuổi trẻ em thì mức tăng ≥ 7% trọng lượng cơ thể lên tới 90,5%. Còn theo tác giả Kemp, D.E. và cộng sự [71] trong nghiên cứu về tác dụng không mong muốn của olanzapin ở bệnh nhân tâm thần phân liệt trẻ tuổi thì tỉ lệ gặp mức tăng cân

≥7% trọng lượng cơ thể ban đầu sau 6 tuần là 45,8%.

Tỉ lệ này tăng theo thời gian sử dụng thuốc, càng dùng thời gian kéo dài tỉ lệ này càng tăng.

4.2.1.3. Tỉ lệ tăng cân theo giới và nhóm tuổi ở bệnh nhân điều trị bằng olanzapin

Trong nghiên cứu này của chúng tôi, sự thay đổi cân nặng của hai giới nam và nữ là không có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Tại thời điểm T3, nam tăng là 5,72 kg, nữ tăng là 5,58 kg.

Theo tác giả Ascher-Svanum, H.Stensland, M.Zhao, Z.Ki [106], nghiên cứu trên 1337 bệnh nhân tâm thần phân liệt sử dụng olanzapin trong thời gian 6 tuần, sự thay đổi cân nặng của hai giới nam và nữ không đáng kể. Kết quả

này cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Kraal, A. Z. Ward, K. M.

Ellingrod, V. L.[108] không có sự khác nhau giữa hai giới tính nam và nữ về những biểu hiện của hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân tâm thần phân liệt được điều trị bằng olanzapin.

Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, sự thay đổi cân nặng theo các nhóm tuổi ở các thời điểm nghiên cứu chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Mức tăng cân ở nhóm bệnh nhân tâm thần phân liệt trẻ tuổi trong nhóm dùng olanzapin của chúng tôi cũng tương tự như những kết của các nghiên cứu khác. Sau 8 tuần điều trị bằng olanzapin, bệnh nhân ở lứa tuổi dưới 18 có mức tăng cân là 4,46 ± 2,82 kg. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Kryzhanovskaya và cộng sự, sau 6 tuần mức tăng cân là 4,3±3,3 kg [109]. Sự tăng cân ở lứa tuổi dưới 18 của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Jerome H. Taylor, Ewgeni Jakubovski, Daniel Gabrielvà cộng sự, sau 8 tuần, bệnh nhân tâm thần phân liệt khởi phát ở lứa tuổi trẻ điều trị bằng olanzapin tăng 7,29 ±3,44 kg [110]. Mức tăng này cao so với nghiên cứu của chúng tôi. Theo Correll, C.U [111] ở tuổi càng trẻ thì mức độ tăng cân càng nhiều. Sau khoảng 11 tuần, những bệnh nhân trẻ tuổi khởi phát bệnh tâm thần phân liệt giai đoạn đầu tăng tới 8,5kg khi điều trị bằng olanzapin. Vì vậy có nhiều nghiên cứu đưa ra khuyến cáo là không nên dùng olanzapin khi điều trị những bệnh nhân tuổi trẻ.

4.2.1.4. Đặc điểm sự thay đổi chỉ số BMI ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng olanzapin

Trong nghiên cứu này của chúng tôi, giá trị trung bình của BMI tại các thời điểm T0, T1, T2, T3 là 19,41±1,82 kg/m2, 19,33±2,09 kg/m2, 19,89±2,18 kg/m2, 20,25±2,24 kg/m2. Sự tăng lên của chỉ số BMI so với thời điểm T0 đều có ý nghĩa thống kế với p<0,05.

Tại thời điểm T1, T2, T3 chỉ số BMI, tăng hơn so với thời điểm T0 lần lượt là 1,31±0,86 kg/m2, 1,88±1,18 kg/m2, 2,24 ±1,33 kg/m2 với mức có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Theo nghiên cứu của tác giả Salviato Balbão, M. Cecílio Hallak, J. E.

Arcoverde Nunes và cộng sự [105] nghiên cứu trên 30 bệnh nhân tâm thần phân liệt điều trị bằng olanzapin, sau bốn tuần điều trị chỉ số BMI tăng từ 24,4kg/m2 lên 25,9 kg/m2, sau tám tuần tăng lên 27,1kg/m2. Kết quả tăng này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

4.2.1.5. Đặc điểm sự thay đổi chỉ số vòng eo ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng olanzapin

Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, giá trị trung bình vòng eo tại các thời điểm T0, T1, T2, T3 là 70,65±5,25cm, 74,98±5,62cm, 76,81±5,62cm, 77,94±5,98cm, vòng eo tăng ở các thời điểm T1, T2, T3 4,30 ±3,1cm, 6,15

±3,59cm, 7,28 ±4,19cm ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng olanzapin, sự tăng vòng eo so với thời điểm T0 có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Trong nghiên cứu của tác giả Saddichha, S., Manjunatha, N., Ameen, S và cộng sự [66] sau sáu tuần nghiên cứu ở bệnh nhân tâm thần phân liệt mới mắc bệnh lần đầu chưa được điều trị, nhóm 35 bệnh nhân dùng olanzapin có vòng eo tăng lên từ 73,1cm lên 81cm, kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi.

Theo nghiên cứu của tác giả Salviato Balbão, M. Cecílio Hallak, J. E.

Arcoverde Nunes và cộng sự [105] khi nghiên cứu trên 30 bệnh nhân tâm thần phân liệt được điều trị bằng olanzapin sau bốn tuần nghiên cứu mức tăng vòng eo từ 76,2 cm lên 79,8 cm, và sau tám tuần mức vòng eo tăng lên 83 cm, tức tăng lên 6,2 cm sau 8 tuần điều trị. Kết quả này cũng tương đương như nghiên cứu của chúng tôi.

Còn theo nghiên cứu của tác giả Henry J. Riordan, Paola Antonini, Michael F. Murphy [15] sau 12 tuần điều trị bằng olanzapin ở bệnh nhân tâm thần phân liệt tác giả nhận thấy olanzapin và quetiapin có mức tăng vòng eo ngang nhau, sau 12 tuần tăng là 1,78 cm (0,7 inches) như vậy mức tăng này là thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.

4.2.1.6. Đặc điểm sự thay đổi huyết áp ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng olanzapin

Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị trung bình của huyết áp tâm thu tại các thời điểm T0, T1, T2, T3 lần lượt là 109±8,03mgHg, 110±8,62mmHg, 110±8,74 mmHg, 109±9,1mgHg. Sự thay đổi giá trị huyết áp này không có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Mức độ tăng giá trị huyết áp tâm trương tại các thời điểm T1, T2, T3 so với T0 là 1,25 ±7,26 mmHg, 0,67±8,96 mmHg, -0,09±9,72 mgHg. Sự tăng lên này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Giá trị huyết áp tâm trương trung bình tại các thời điểm T0, T1, T2, T3 lần lượt là 68,27±6,78 mmHg, 68,75±7,06 mmHg, 69,12±6,10 mgHg, 69, 29

±7,48 mgHg. Sự khác nhau về giá trị trung bình tại các thời điểm nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê với giá trị p>0,05. Mức tăng chỉ số huyết áp tâm trương tại các thời điểm T1, T2, T3 so với thời điểm T0 lần lượt là 0,48±6,58 mgHg, 0,85 ±7,14 mmHg, 1,02±8,71mgHg, sự tăng này không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.

Theo nghiên cứu của các tác giả Saddichha, S., Manjunatha, N., Ameen, S và cộng sự [66] sau sáu tuần theo dõi và điều trị bằng olanzapin ở bệnh nhân tâm thần phân liệt khởi phát lần đầu, chưa điều trị với bất kỳ loại thuốc an thần kinh nào, giá trị huyết áp tâm thu tăng từ 116,6 mgHg lên 125,2 mgHg, huyết áp tâm trương tăng từ 76,8 mgHg lên 78,4 mgHg với sự khác nhau có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả này khác với kết quả thu được trong nghiên cứu của chúng tôi.

4.2.2. Đặc điểm sự thay đổi giá trị cận lâm sàng của HCCH và các rối loạn