• Không có kết quả nào được tìm thấy

Cải thiện về kiến thức, thực hành về vệ sinh chăn nuôi và sử

Chương 4: BÀN LUẬN

4.3. Hiệu quả can thiệp giáo dục truyền thông thay đổi kiến thức, thực

4.3.2. Cải thiện về kiến thức, thực hành về vệ sinh chăn nuôi và sử

Xét trên phương diện kiến thức về sự hiểu biết khi chăn nuôi gia cầm thì có thể gây một số bệnh cho con người của người trực tiếp tham gia chăn nuôi có tăng dần theo thời gian, tuy nhiên nếu được can thiệp tập trung vào đối tượng đích thì hiệu quả đạt được sẽ khả quan hơn rất nhiều (hiệu quả can thiệp đạt 28,6%). Người chăn nuôi phần lớn không nhận thức được là viêm phế quản phổi, cúm A/H5N1 và một số bệnh khác có thể truyền từ gia cầm sang cho con người, cùng với thời gian nhận thức của người chăn nuôi cũng được tăng dần (không được can thiệp thì chỉ số hiệu quả nhận thức về gia cầm có thể truyền H5N1 cho người đạt 30,8%). Tuy nhiên có sự tập trung can thiệp cho đối tượng đích thì hiệu quả đạt rất cao (hiệu quả can thiệp đạt tới 71,1%).

Liên quan tới thái độ xử lý đối với đàn gia cầm bị bệnh, như ta đã biết trước can thiệp thì người chăn nuôi phần nhiều còn mang gia cầm bị bệnh đi bán chạy, thậm chí còn giết thịt để bán hoặc là để ăn, có lẽ do vì các đối tượng nghiên cứu là các hộ gia đình chăn nuôi nhỏ lẻ chỉ mong muốn chăn nuôi để tăng thêm một phần thu nhập và cải thiện bữa ăn trước mắt cho chính gia đình mình mà không cần tính đến các hậu quả mà nó gây ra; không báo cho các cán bộ cơ quan thú y và không tiêu hủy do phần lớn họ cho rằng chăn nuôi gia cầm nhỏ lẻ thì không gây ra bệnh dịch như cúm (cúm không lây cho người từ gia cầm), nhưng sau khi được giáo dục can thiệp người chăn nuôi gia cầm tại xã Hồng Thái đã có những thay đổi tích cực: từ 45 hộ xuống còn 3 hộ mang gia cầm bị bệnh đi bán với hiệu quả can thiệp đạt 93,3%; các hộ gia đình đồng ý với quan điểm cần phải báo với cán bộ thú y xã và hiệu quả can thiệp đạt 85,9%, điều đáng ghi nhận là các hộ chăn nuôi gia đình thấy cần phải tiêu hủy

toàn bộ đàn gia cầm khi bị dịch bệnh như cúm với hiệu quả can thiệp đạt 97,1%, so với nhóm chứng thì hiệu quả can thiệp đạt được 94,3%. Có thể nói sự hiểu biết rất ít về các bệnh lây từ gia cầm nói chung mà đặc biệt là dịch cúm gia cầm sang cho con người nói riêng, nay tỷ lệ hiểu biết đã được tăng lên rất cao, giúp cho ý thức của người chăn nuôi về công tác phòng bệnh được nâng lên rõ rệt với hiệu quả rất khả quan, thể hiện thông qua kết quả điều tra sau gần một năm tuyên truyền giáo dục bằng các phương tiện truyền thông thông thường.

Trong thực tế, thực hành về xử lý chuồng trại khi gia cầm bị cúm cho thấy những người tham gia nghiên cứu tuy có trình độ học vấn trung bình (phổ biến là phổ thông trung học và phổ thông cơ sở), nhưng hiểu biết về chăn nuôi gia cầm và an toàn sinh học cũng như vệ sinh môi trường còn hạn chế, nên sau khi được tác động can thiệp người chăn nuôi gia cầm tại xã Hồng Thái đã có những thay đổi tích cực về công tác tẩy uế chuồng trại bằng vôi bột và thậm chí còn chủ động báo cáo cho cán bộ cơ quan thú y đến để h trợ phun thuốc tẩy uế, khử trùng đặc hiệu nhằm tiêu diệt mầm bệnh, tránh mắc một số bệnh cho đàn gia cầm nuôi tiếp theo, tránh lây truyền cho người và lây lan ra cộng đồng. Kết quả cho thấy hiệu quả can thiệp đối với phun thuốc tẩy uế, khử trùng chuồng/ trại và đặc biệt là có cả khử trùng khu vực nhà ở với hiệu quả can thiệp là 66,7% (khu vực chuồng/trại) và 94,4% đối với khu vực xung quanh nhà ở (trước khi can thiệp chỉ có tỷ lệ thấp khử trùng bằng vôi bột tại chuồng nuôi 15,2%, chưa sử dụng phun thuốc khử trùng cho tới cả khu nhà ở). Về lĩnh vực này là do người chăn nuôi theo phương thức truyền thống tại các hộ gia đình nhỏ lẻ thiếu thông tin nên cảm thấy không cần thiết phải khử trùng tiêu độc chuồng trại vì phần lớn là gia cầm được nuôi thả rông; Họ cũng mới chỉ biết duy nhất khử trùng tiêu độc bằng vôi bột còn không biết các loại hóa chất khác như Cloramine B, Benkocid, Virkon hay Hanamid được khuyến

cáo sử dụng để sát trùng (kể cả tiêu diệt các loại vi khuẩn, vi rút và các loại nấm) rất an toàn và hiệu quả. Công tác vệ sinh chuồng/trại trước khi can thiệp chỉ có số ít hộ gia đình có vệ sinh chuồng trại định kỳ thường xuyên, sau can thiệp, vệ sinh chuồng trại định kỳ ở địa phương này tăng lên đáng kể. Hiệu quả can thiệp ở đây là rất cao đạt tới 92,8%, so với nhóm chứng thì hiệu quả can thiệp đạt 90,4% vì việc này khá đơn giản chỉ cần người chăn nuôi có ý thức về vấn đề dọn dẹp vệ sinh chứ không cần tới phương tiện và đầu tư tốn kém, không ảnh hưởng gì tới kinh tế gia đình.

Đối với công việc sử dụng bảo hộ lao động: trong quá trình điều tra cho thấy chỉ có 55,4% người chăn nuôi có sử dụng phòng hộ lao động, sau khi can thiệp tỷ lệ này đạt cao hơn, như vậy hiệu quả can thiệp trước sau đạt 44%.

Hiệu quả can thiệp so với xã đối chứng đạt 25,3%.

Về loại bảo hộ lao động: sau can thiệp tại xã Hồng Thái có tới 90,1%

người chăn nuôi sử dụng khẩu trang, các loại trang thiết bị phòng hộ khác cũng được sử dụng với tỷ lệ cao. Trước khi can thiệp người chăn nuôi chỉ sử dụng khẩu trang với số lượng ít (66,7%), nhưng nay hầu hết đã sử dụng khẩu trang và đặc biệt nhiều người chăn nuôi đã sử dụng các thiết bị phòng hộ bảo vệ tránh các tác nhân gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người như mũ/nón và đặc biệt sử dụng giầy/ủng, găng tay và đeo kính trong lúc cho gia cầm ăn và vệ sinh chuồng trại với hiệu quả can thiệp rất cao (82,5%, 79,1% và 94,7%).

Đây là một sự thay đổi rất đáng quan tâm vì thói quen của người dân lâu nay rất ngại sử dụng các loại bảo hộ lao động do bất tiện, khó chịu hoặc vì cho là tham gia chăn nuôi hay tiếp xúc với gia cầm không ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, nhưng sau khi có sự giáo dục và tuyên truyền thì thực hành sử dụng bảo hộ lao động được thay đổi đáng kể.

Như vậy ta nhận thấy rõ ràng là những đối tượng chăn nuôi gia cầm tham gia nghiên cứu có trình độ văn hóa chủ yếu là trung học phổ thông nhưng còn thiếu hiểu biết, do thiếu thông tin về vấn đề vệ sinh môi trường về bệnh tật của gia cầm cũng như phương thức, hay cách thức lây lan và nguyên nhân của các bệnh gia cầm, thiếu kiến thức trong công tác xây dựng và vệ sinh chuồng trại, cũng như các biện pháp phòng ngừa mà người chăn nuôi gia cầm có thể mắc bệnh do môi trường chăn nuôi gia cầm gây ra hoặc các bệnh trực tiếp hay gián tiếp lây truyền từ gia cầm. Sau khi được tiến hành can thiệp bằng biện pháp giáo dục, tuyên truyền qua tập huấn, hội thảo nhóm, phát tờ rơi thì trình độ nhận thức cũng như thực hành của người chăn nuôi được cải thiện rõ rệt; được thể hiện qua kết quả nghiên cứu quan sát về qui cách xây dựng chuồng/ trại, quét dọn vệ sinh, khử trùng tiêu độc, biết cách xử lý khi gia cầm bị nhiễm bệnh và sử dụng phòng hộ lao động thường qui. Tuy nhiên cần phải có điều kiện về thời gian và kinh phí, nguồn lực để tiến hành những nghiên cứu sâu hơn về sức khỏe và bệnh tật của những người chăn nuôi gia cầm thì chúng ta mới đưa ra được những khẳng định qui kết về mối liên quan chặt chẽ giữa các bệnh của người chăn nuôi gia cầm (bệnh nghề nghiệp) với môi trường chuồng/trại mất vệ sinh cũng như các bệnh có nguồn gốc phát sinh từ gia cầm, từ đó mà đưa ra khuyến cáo trong công tác phòng chống bệnh tật do chăn nuôi gia cầm và sẽ được áp dụng rộng rãi trong toàn thể cộng đồng, nhằm bảo vệ, tăng cường và nâng cao sức khỏe cho người chăn nuôi gia cầm nói riêng và cộng đồng nói chung.

Chúng tôi nhận thấy từ việc người chăn nuôi gia cầm thiếu quan tâm đến sức khỏe của chính mình, coi việc chăn nuôi gia cầm ít ảnh hưởng đến sức khỏe nên việc nhận thức để cải tạo môi trường chăn nuôi, môi trường sống là còn hạn chế. Qua các kênh tuyên truyền công cộng về ảnh hưởng của môi trường chăn nuôi đến sức khỏe của con người thì đã có những tiến bộ hơn

trong việc cải thiện môi trường và phòng bệnh cá nhân, tuy nhiên nếu được tuyên truyền giáo dục có chủ đích thì hiệu quả được tăng lên rõ rệt.

4.3.3. Cải thiện về hiểu biết bệnh tật và sức khỏe của con người liên quan