• Không có kết quả nào được tìm thấy

Kết quả chức năng

Trong tài liệu ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (Trang 101-105)

Chương 4: BÀN LUẬN

4.2. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT

4.2.2. Kết quả chức năng

Kết quả giải phẫu ở nhóm xuất huyết dịch kính

Tỷ lệ kết quả giải phẫu tốt tăng dần từ khi ra viện tới thời điểm sau mổ 1 tháng, (từ 48,6% tăng lên 94,3%). Tỷ lệ kết quả giải phẫu trung bình giảm dần từ khi ra viện tới thời điểm sau mổ 1 tháng (từ 48,6% giảm còn 5,7%), kết quả xấu giảm từ 2,9% khi ra viện xuống còn 0% thời điểm 1 tháng. Từ sau mổ 3 tháng tỷ lệ kết quả giải phẫu tốt có giảm ít, chúng tôi gặp một trường hợp bong võng mạc do co kéo dịch kính võng mạc tại vị trí vết thương củng mạc. Kết quả giải phẫu tốt giảm ở tháng thứ 3 do bắt đầu có tăng sinh dịch kính-võng mạc hoặc xuất hiện màng trước võng mạc sau mổ.

4.2.2. Kết quả chức năng

lực trước phẫu thuật đã ở khoảng 20/200 nên ngay sau phẫu thuật tình trạng thị lực cải thiện chưa rõ ràng, thị lực ổn định dần sau 3 đến 6 tháng theo dõi.

Thị lực của bệnh nhân trong nhóm bong võng mạc do có bơm khí nở nội nhãn tăng dần sau thời điểm 1 tháng vì bóng khí gây cản trở trục nhìn.

Biểu đồ 4.1. Biến đổi thị lực theo thời gian

Raja Narayanan [42] tiến hành cắt dịch kính cho 30 bệnh nhân mỗi nhóm 23G, 20G, với các chỉ định khác nhau. Thị lực của mỗi bệnh nhân được ghi nhận tại các thời điểm ngày 1, tuần 1 và tuần 6. Kết quả thị lực ở 2 nhóm là tương đồng. Thị lực trung bình ngày đầu và tuần 1 tốt hơn đáng kể ở nhóm 23G với p = 0,004 và p = 0,002. Không có sự khác biệt đáng kể thị lực chỉnh kính tối đa giữa 2 nhóm ở thời điểm 6 tuần sau phẫu thuật. 83% bệnh nhân nhóm 23G đạt thị lực tốt nhất ở thời điểm 1 tuần trong khi với dụng cụ 20G, tỷ lệ này chỉ là 43%.

Kết quả hồi phục thị lực ngay trong tuần 1 và phần đông bệnh nhân tăng thị lực tốt trong tháng 1 trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng

với nhiều tác giả khác sử dụng cắt dịch kính 23G. Điều này chứng tỏ phẫu thuật 23G hồi phục thị lực nhanh hơn so với phẫu thuật 20G [82], [83].

Nghiên cứu Tanawade RG. [84] gồm 16 mắt có màng trước võng mạc được phẫu thuật cắt dịch kính 23G, theo dõi ít nhất 6 tháng. Tại thời điểm 6 tháng, thị lực cải thiện ở 31,25% mắt, không đổi ở 31,23% và kém đi 37,5%.

Nguyên nhân giảm thị lực sau phẫu thuật gồm bệnh lý hoàng điểm kéo dài và đục thể thủy tinh không được điều trị. Ngoài ra, phục hồi thị giác đạt được nhanh hơn với cắt dịch kính đường mổ nhỏ đã được chứng minh là do không khâu củng mạc làm giảm loạn thị hơn so với cắt dịch kính 20G (Hass và cộng sự, 2010) [85].

Qua quá trình nghiên cứu, so sánh với một số tác giả khác chúng tôi cho rằng kết quả thị lực cải thiện thấp nhất ở nhóm bệnh lý vùng hoàng điểm vì ở một số trường hợp mặc dù bóc được màng, thành công về giải phẫu nhưng vẫn khó tiên lượng kết quả thị lực. Phẫu thuật cắt dịch kính không khâu có thể giúp ổn định và cải thiện thị lực đặc biệt ở những mắt màng trước võng mạc co kéo vùng hoàng điểm, nếu điều trị giảm viêm tốt sau phẫu thuật sẽ hạn chế được tái phát của màng trước võng mạc do quá trình tăng sinh dịch kính võng mạc tiến triển.

4.2.2.2. Kết quả nhãn áp

Chỉ số nhãn áp sau phẫu thuật cũng góp phầnđánh giáđộ kín của mép mổ và chức năng nhãn cầu, đặc biệt là ngày đầu hậu phẫu. Nhãn áp trung bìnhđo đượcsau phẫu thuật 1 ngày là 13,6 ± 3,0 (từ 6 đến 20 mmHg), có 2 trường hợp nhãn áp thấp nhưng được cải thiện dần mà không cần can thiệp phẫu thuật. Nghiên cứu của tác giả Kim MJ. cũng có nhãn áp trung bình tương ứng là 13,6 ± 3,7 mmHg nhưng không mắt nào có nhãn áp thấp dưới 8 mmHg. Tác giả Kusuhara [81] còn nhận thấy nhãn áp ngàyđầu sau mổ trên những mắt phẫu thuật với dụng cụ 23G còn cao hơn trên những mắt phẫu

thuật với dụng cụ 25G, tương ứng là 17,4 ± 5,8 mmHg và 12,3 ± 4,9 mmHg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p= 0,036. Điều này chứng tỏ tình trạng hạ nhãn áp sau phẫu thuật không liên quan đến kích thước dụng cụ mà chủ yếu là do kỹ thuật tạo đường hầm để khép kín vết thương khi kết thúc phẫu thuật. Nhiều nghiên cứu khác đo nhãn áp ở giờ thứ 2 và thứ 5 sau phẫu thuật cho thấy nhãn ápthấp chỉ chiếm tỷ lệ 3,7%. Nghiên cứu của chúng tôi không đo nhãn áp ở những giờ sớm vì có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng sau mổ.

Nghiên cứu của Mario R Romano trên 50 mắt bong võng mạc. Kết quả phẫu thuật có 42/50 khí nội nhãn, 8 mắt dùng dầu silicon nội nhãn. Nhãn áp trung bình trước mổ 14 ± 3,2 mmHg, sau phẫu thuật 1 ngày 10 ± 2,8mmHg, sau 1 tuần: 11 ± 2,3 mmHg, 12,3 ± 4,7 mmHg, 12 ± 5,7 mmHg and 14,3 ± 5,7 mmHg tại các thời điểm sau mổ 1, 3, 6tháng. Trong nghiên cứu có 2 bệnh nhân nhãn áp thấp dưới 6 mmHg sau mổ do bong hắc mạc. Có 6 mắt cần khâu vết thương, trong đó, 5 mắt cần khâu ở vết mở bơm dầu silicon nội nhãn, chỉ 1 mắt cần khâu ở vị trí đặt đường vào nội nhãn.

Bảng 4.1. Nhãn áp trung bình ngày đầu sau phẫu thuật

TT Tác giả Năm n Dụng cụ Chất độn nn Nhãn áp TB

1 Scott 2006 40 25G Dịch 13 (5 ;27)

2 Fine 2007 77 25G Dịch 24,1 ± 7,1

3 Kim M.J. 2010 70 23G Dịch hoặc khí 13,6 ± 3,7 4 Kusuhara S. 2008 50 23G Dịch hoặc khí 17,4 ± 5,8

5 Mario Romano 2012 30 23G Dịch 10 ± 2,8

6 P.T. Minh,

Đ.N. Hơn 2014 102 23G Dịch hoặc khí 13,6 ± 3,0

Trong nghiên cứu có 1 mắt tăng nhãn áp do sau mổ bệnh nhân nằm sấp không tốt do đó bóng khí đẩy thể mi, mống mắt, thể thủy tinh bị đẩy ra trước làm bít góc tiền phòng và làm tăng nhãn áp.

Trong tài liệu ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (Trang 101-105)