• Không có kết quả nào được tìm thấy

Chương 1. TỔNG QUAN

1.6. Kết quả điều trị

Nghiên cứu những cá thể nhận ghép trong khoảng 1982-1993 và gần đây về tỷ lệ nhận ghép cho thấy ít nhất tỷ lệ thải ghép trong năm đầu sau ghép là 76%

và 33% tương ứng. Tỷ lệ nhận ghép tuyến tụy tăng lên theo thời gian. Với những thuốc ức chế miễn dịch hiện nay, tỷ lệ nhận ghép trong 3 năm đã đạt 80%. Ghép đồng thời thận tụy thu được kết quả tốt hơn ghép tuyến tụy đơn thuần mặc dù tỷ lệ sống sau ghép tuyến tụy đơn thuần cải thiện rõ rệt. 25%

ghép tuyến tụy là ghép đơn thuần ở Mỹ với tỷ lệ nhỏ là ghép tuyến tụy người cho sống. Do nguy cơ phẫu thuật kết hợp với nguy cơ của thuốc ức chế miễn dịch nên chỉ chỉ định hạn chế ghép cho những người không thể sử dụng insulin an toàn hoặc những người cần thuốc ức chế miễn dịch cho ghép thận.

Ghép chọn lọc đảo tụy cũng được nghiên cứu điều trị ĐTĐ. Do có những nguy cơ khi dùng thuốc ức chế miễn dịch nên hầu hết những trường hợp được chỉ định ghép tiểu đảo tụy cho những bệnh nhân ĐTĐ typ 1 không ổn định và hạ glucose máu không triệu chứng. Ghép đảo tụy giúp cho những bệnh nhân này kiểm soát glucose máu tốt hơn, HbA1C bình thường, phòng ngừa hạ glucose máu và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tỷ lệ phụ thuộc insulin 1 năm sau ghép tiếp tục tăng, sau đó duy trì thấp, xấp xỉ 50% trong năm đầu và 33% trong năm thứ hai.

Sự tiến bộ vượt bậc đã đạt được trong việc phân lập tế bào β từ dịch ối hoặc từ nguồn tế bào gốc của người lớn. Tế bào có nguồn gốc trung mô, hệ tạo máu và ống tuyến tụy có thể biệt hóa thành tế bào β. Tế bào gốc từ phôi thai người có thể tạo ra tế bào bài tiết insulin khi có kích thích của glucose trên in vivo. Những phát hiện này đã mở ra một hướng mới cho điều trị ĐTĐ và tiềm năng lớn không chỉ trong việc cung cấp nguồn ghép chắc chắn cho ghép đảo tụy mà còn cho việc ghép tự thân [73].

trường hợp bệnh hoặc một số các trường hợp bệnh với cỡ mẫu nhỏ, vì vậy khó đánh giá được kết quả điều trị lâu dài trên số lượng bệnh nhân đủ lớn có thể đại diện cho nhóm bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh.

ĐTĐ sơ sinh được chẩn đoán lần đầu năm 1789 [70]. Keidan (1955) [74] đã hồi cứu 22 bệnh nhân được báo cáo năm 1947, trong đó có 5 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh tạm thời được chẩn đoán trước 6 tuần tuổi. Trước khi insulin được ứng dụng điều trị thì những bệnh nhân này đều không được cứu sống. Việc điều trị ĐTĐ sơ sinh và ĐTĐ týp 1 không có gì khác biệt cho đến khi nguyên nhân về đột biến các gen của ĐTĐ sơ sinh được làm sáng tỏ. Các phát hiện này đã làm cho phương pháp điều trị ĐTĐ sơ sinh và ĐTĐ typ 1 có sự khác biệt rõ rệt: những bệnh nhân ĐTĐ do đột biến gen ABCC8 hoặc KCNJ11 có thể điều trị bằng uống sulfonylurea thay thế cho insulin tiêm. Các nghiên cứu báo cáo ca bệnh và nghiên cứu hàng loạt ca bệnh đã khẳng định hiệu quả của uống sulfonylurea. Trong một nghiên cứu lớn nhất gồm 49 bệnh nhân được điều trị bằng sulfonylurea [58], có 90% bệnh nhân có cải thiện kiểm soát glucose máu. Việc điều trị bằng uống sulfonylurea không những đơn giản hơn, dễ dàng hơn so với tiêm insulin mà nhiều năm sau đó bệnh nhân vẫn duy trì được mức HbA1c gần bình thường. Trong nghiên cứu này, chỉ có một lần duy nhất gặp hạ glucose máu nặng (ở bệnh nhân có vấn đề về tâm thần) ngay cả khi dùng liều rất cao (>2 mg/kg/ngày glyburide).

Nghiên cứu trên chuột đã hỗ trợ cho giả thuyết rằng khi không có sulfonylurea thì chức năng của tế bào β bị suy giảm và sulfonylurea đã giúp cho tế bào β khỏe mạnh. Những bệnh nhân có hội chứng DEND nặng nói chung là kém đáp ứng với sulfonylurea. Ngược lại, những bệnh nhân có hội chứng DEND ít nặng hơn như trong trường hợp có đột biến p.V59M thường đáp ứng tốt với sulfonylurea. Những trường hợp không đáp ứng với sulfonylurea thường do hậu quả của việc không đóng được kênh KATP

những trường hợp có hội chứng DEND nặng, phản ánh mức độ ức chế nơ ron thần kinh. Hầu hết bệnh nhân cho dù có lớn tuổi hoặc có biểu hiện thần kinh thì ít nhất cũng đáp ứng một phần với sulfonylurea được thể hiện qua sự cải thiện mức glucose máu khi giảm liều insulin mặc dù một số bệnh nhân cần liều cao sulfonylurea hoặc phải dùng thêm thuốc khác. Nhiều nghiên cứu báo cáo ca bệnh đã chứng minh sự cải thiện tâm thần kinh ở những bệnh nhân có hội chứng DEND trung bình bao gồm những bệnh nhân có đột biến p.V59M, p.G53D và p.H46L. Bệnh nhân có biểu hiện chậm vận động nặng, hoặc chậm nhận thức và ngôn ngữ ở nhiều độ tuổi khác nhau đã cải thiện đáng kể những triệu chứng này sau điều trị vài tháng, tuy nhiên không thể hồi phục hoàn toàn. Hơn nữa một trường hợp bệnh nhân có hội chứng DEND nặng đã cải thiện có ý nghĩa các biểu hiện thần kinh đặc biệt khi dùng sulfonylurea liều cao (2,3 mg/kg/ngày glyburide/glibenclamide) so với liều thông thường (<1 mg/kg/ngày) [70].

Muhlendahl và cs [14] nghiên cứu 57 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh: 26/57 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh vĩnh viễn, 18 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh tạm thời, 13 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh tạm thời tái phát khi 7-20 tuổi. Nghiên cứu đã đánh giá 123 công bố khoa học về ĐTĐ sơ sinh từ 64 trung tâm của 17 quốc gia cho thấy: 20 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh tạm thời chưa có biểu hiện tái phát, giai đoạn ĐTĐ kéo dài từ 17-1914 ngày. 8 trẻ được theo dõi đến 7-19 tuổi, 4 bệnh nhân tuổi từ 4 tháng - 4 tuổi có phát triển tâm thần bình thường. Hai bệnh nhân song sinh chậm phát triển tâm thần nhẹ trong đó có một bệnh nhân có biểu hiện co giật và tim bẩm sinh phức tạp. Không có bệnh nhân nào có bệnh não bé. Nghiên cứu đánh giá 13 bệnh nhân ĐTĐ sơ sinh tạm thời [14], 12 trẻ gái và một trẻ trai có biểu hiện ĐTĐ tái phát muộn, cả 13 trẻ này đều có chậm phát triển trong tử cung, giai đoạn ĐTĐ kéo dài 14 - 325 ngày và giai đoạn hồi phục kéo dài 7-20 tuổi. Chậm phát triển tâm thần nhẹ gặp ở hai trẻ song sinh.

Khi nghiên cứu các báo cáo về ĐTĐ sơ sinh vĩnh viễn, có 8/18 bệnh nhân khởi phát ĐTĐ khi 3 ngày tuổi. Bệnh nhân được theo dõi đến 8-32 tuổi, 1 bệnh nhân tử vong khi 15 tuổi không rõ nguyên nhân, 9 bệnh nhân phát triển tâm thần bình thường. Có hai bệnh nhân có chậm phát triển tâm thần trung bình, một trong hai bệnh nhân này có chậm phát triển trong tử cung nhưng anh trai sinh đôi khỏe mạnh bình thường với cân nặng lúc sinh bình thường. Hai bệnh nhân chậm phát triển tâm thần nặng. Không có thông tin về phát triển tâm thần ở 5 bệnh nhân. Một bệnh nhân có vi phình mạch ở vùng quanh giác mạc của mắt phải khi 15 tuổi nhưng sau đó tự mất. Không có báo cáo về bệnh mao mạch [14].