• Không có kết quả nào được tìm thấy

Thực trạng khai thác các tài nguyên văn hóa ở Bắc Ninh

2. Xếp hạng khách sạn

2.2.6. Thực trạng khai thác các tài nguyên văn hóa ở Bắc Ninh

.

.

của mình, Bắc Ninh thu hút nhiều khách nối tour từ Hà Nộ, Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn…góp phần đáng kể gia tăng lượng khách đến tỉnh. Các sản phẩm du lịch Quan họ cùng di tích, lễ hội, làng nghề tạo nên 4 sản phẩm du lịch đang được khai thác : du lịch làng Quan họ, du lịch lễ hội Quan họ, du lịch tín ngưỡng Quan họ, du lịch nghiên cứu Quan họ. Từ đó, hình thành các tuyến du lịch, các chương trình du lịch. Ví dụ : lộ trình theo quốc lộ 1A bao gồm :

Chương trình 1 : thành phố Bắc Ninh – Từ Sơn. Thời gian tham quan là 1 ngày bao gồm Văn Miếu, thành cổ Bắc Ninh ở thành phố Bắc Ninh. Về Từ Sơn thăm làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ. Ăn trưa, nghỉ tại Từ Sơn. Thăm làng nghề sơn mài Đình Bảng, thăm di tích lịch sử Đền Đô, và nghe hát quan họ tại thủy đình của làng Tam Tảo.

Chương trình 2 : thành phố Bắc Ninh- Tiên Du- Từ Sơn: xuất phát từ Bắc Ninh đi thăm Văn Miếu, về Tiên Du thăm làng dệt Tương Giang, chùa Phật Tích. Ăn, nghỉ trưa tại Từ Sơn và nghe hát Quan họ.

Chương trình 3 : thành phố Bắc Ninh- Yên Phong- Tiên Du – Từ sơn : xuất phát từ Bắc Ninh đi thăm Văn Miếu, làng giáy dó Đống Cao, khu di tích Lim. Ăn, nghỉ trưa tại Lim và nghe hát Quan họ. Thăm lăng mộ của các vua triều Lý, đền thờ ông tổ nghề rèn sắt Đa Hội, khu di tích Đình Bảng. Kết thúc chương trình, trả khách về Bắc Ninh.

Chương trình 4 : Thành cổ Bắc Ninh- Yên phong- Từ sơn : Xuất phát từ Bắc Ninh đi thăm thành cổ, chàu Điều Sơn,thăm làng giấy, .Ăn , nghỉ trưa tại Từ Sơn. Thăm làng gỗ Đồng Kỵ, gốm phù lãng.

Ngoài ra, còn rất nhiều các chương trình du lịch khác, theo các tuyến quốc lộ khác nhau ( xem thêm tại phụ lục 4: một số chương trình du lịch văn hóa đnag được khai thác tại Bắc Ninh ).

Theo thống kê, lượng khách du lịch tham gia các chương trình ngày càng tăng. Đối với khách chỉ đến nghe Quan họ tại các làng Quan họ thì lượng khách quốc tế, chưa có sự thống kê đầy đủ, song, qua khảo sát hoạt động kinh doanh

của các doanh nghiệp và hoạt động biểu diễn Quan họ tại các làng Quan họ, có thể thấy thị trường khách du lịch này cũng hết sức đa dạng về quốc tịch, nghề nghiệp, và không nhiều về số lượng, nhưng cũng gia tăng rõ rệt, từ thị trường Anh, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, các nước Đông Nam Á, Việt kiều trở về quê , một số doanh nghiệp chuyên tổ chức tour Quan họ có thống kê như sau : trong hai năm trở lại đây, công ty Hài Vệ Nữ đã đưa được 500 khách đến Bắc Ninh du lịch Quan họ, chử yếu khách đến từ thị trường Anh, Úc, Mỹ. Trong 3 năm 2007, 2008, 2009 công ty lữ hành Saigontouris tổ chức cho 2 đoàn gồm 15 khách Pháp và 9 khách Thụy Sĩ đi tour này. Công ty Vietrantour đã tổ chức cho 22 khách quốc tịch Hà Lan đi du lịch và nghe hát Quan họ Bắc Ninh. Đặc biệt , năm 2010 công ty Vidotour tổ chức khá nhiều đoàn khách tham gia tour Quan họ Bắc Ninh, với 151 đoàn, có tổng số khách là 3200 khách chủ yếu mang quốc tịch Pháp, Đức, Bắc Âu, có độ tuổi từ 45 đến 65. Trung tâm văn hóa, thể thao, du lịch Phú Sơn đón được 5000 khách có tham gia chương trình Quan họ. Về lượng khách du lịch nội địa thì thường tham dự tour Quan họ vào mùa lễ hội, nhất là mùa xuân, hội hát Quan họ diễn ra ở cả 44 làng Quan họ gốc, đặc biệt thu hút đông du khách nhất là hội Lim ( khowngr 50.000 lượt khách ) hội Đền đô ( 25000 lượt khách ). Một số điểm du lịch nằm trong chương trình du lịch Quan họ thường xuyên có khách đến tham quan như : Văn Miếu Bắc Ninh ( năm 2010 đón 900 lượt khách và 80% là khách nội địa) đền Bà chúa kho ( lượng khách đạt từ 25.000 đến 30.0000 lượt khách/

năm), Đền Đô( 30.000- 40.000 lượt khách/năm), chùa Phật Tích( 28.000- 30.000 lượt khách/năm), chùa Dâu000 đến 13.500 lượt khách/ năm), chùa Bút Tháp ( 27.000 lượt khách trong đó khách quốc tế là khoảng 6000 khách/năm).

Hàng năm, những sự kiện văn hóa Quan họ được tổ chức ngày càng quy mô hơn. Nhất là, ngay sau khi được UNESSCO công nhận di sản phi vật thể của nhân loại, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức hàng loạt các chương trình lớn nhỏ mà tiêu biểu nhất là chương trình “ về miền Quan họ” được tổ chức hàng năm., chương

trình festival Bắc Ninh, hay như tại các sự kiện văn hóa, thể thao và quốc tế quan trọng tổ chức tại Việt Nam như : SEAGAME 22, APEC, ATF09.. , thì dân ca Quan họ luôn được trình diễn tại các phiên khai mac, bế mạc như góp một phần thể hiện bản sắc dân tộc truyền thống Việt Nam. Trong những năm qua, bên cạnh các hoạt động khai thác di sản Quan họ vào du lịch ở trong nước thì các sự kiện văn hóa Quan họ tổ chức ở nước ngoài cũng được đánh giá cao : như Quan họ được biểu diễn tại liên hoan âm nhạc các nước châu Á- Thái Bình Dương năm 1995 tại Nga, liên hoan giai điệu âm nhạc Phương Đông năm 1997 tại Uzeberkistan…Vùng văn hóa Quan họ cũng được đưa vào phim ảnh, đó là phim “ đến hẹn lại lên”. Bên cạnh các chương trình biểu diễn, du lịch Quan họ cũng được quảng bá thông qua các tập gấp, xây dựng biển quảng cáo, tuyên truyền qua báo đài trung ương, tham gia hội chợ du lịch, tổ chức cho doanh nghiệp khảo sát du lịch tại làng Diềm, làng Thổ hà…. Những hoạt động này luôn được cấp chính quyền du lịch tỉnh quan tâm và đầu tư xúc tiến . Nhìn chung, công tác bảo tồn văn hóa Quan họ Bắc Ninh đã đem lại những kết quả quan trọng, Quan họ đã được khôi phục và giữ gìn. Nhờ vậy mà các hoạt động du lịch dựa vào Quan họ mới có thể phát triển, thu hút ngày càng đông du khách biết đến Bắc Ninh, đến du lịch văn hóa ở Bắc Ninh.

Đối với riêng làng nghề thì toàn tỉnh Bắc Ninh vẫn còn 62 làng nghề thủ công, trong đó có 31 làng nghề thủ công truyền thống. Trong số đó, hiện có 28 làng nghề phát triển ổn định với 25 làng nghề truyền thống. Lượng khách du lịch đến tham quan các làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khoảng từ 20 đến 25 nghìn lượt khách mỗi năm, chiếm tỷ lệ 11% đến 14% khách du lịch đến Bắc Ninh. Một số làng nghề bước đầu đã thu hút được khách như Gốm Phù Lãng, Tranh Ðông Hồ, Gỗ Ðồng Kỵ, làng Quan họ cổ Diềm... Bên cạnh việc được chiêm ngưỡng và tự tay tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm truyền thống, du khách còn đồng thời được khám phá những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc luôn gắn liền với lịch sử phát triển của sản phẩm làng nghề. Các di

tích lịch sử văn hóa làng nghề đã được quan tâm tu bổ, tôn tạo, nhiều di tích tiêu biểu như đình, chùa, đền, nhà thờ tổ sư đã được Nhà nước cấp bằng công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia hoặc cấp tỉnh như: lăng mộ tổ sư nghề đồng Nguyễn Công Truyền ở Ðại Bái, lăng mộ và đền thờ tổ sư nghề đúc đồng Nguyễn Công Nghệ ở Quảng Bố, đình chùa làng Ðồng Kỵ, đình đền làng Trang Liệt, đền thờ Thái bảo Quận công Trần Ðức Huệ ở Ða Hội, đình chùa làng Phù Lưu, đình Ðình Bảng, đền Ðô, đình làng Dương Ổ... Lễ hội ở các làng nghề truyền thống cũng được khôi phục và duy trì với nhiều nghi thức trang nghiêm với các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian phong phú, hấp dẫn, mang đậm bản sắc văn hóa cộng đồng của các làng nghề truyền thống như: lễ hội làng nghề Ðại Bái, lễ hội làng nghề Ðồng Kỵ, lễ hội đền Ðô - Ðình Bảng, lễ hội làng Ðống Cao, làng Châm Khê....Các điểm du lịch như làng tranh dân gian Đông Hồ, làng giấy Phong Khê, làng Gốm Phù Lãng, làng Đúc Đồng Đại Bái, làng nghề Đồng Kỵ, làng gốm Thổ Hà là những điểm làng nghề hàng năm thu hút lượng khách du lịch đông hơn cả. Từ đó, hình thành 3 cụm du lịch làng nghề được khai thác trong du lịch : cụm du lịch Đền Đô – Đình Bảng – Phụ cận, cụm Song Hồ - chùa Dâu- phụ cận, các tuyến du lịch kết hợp nội tỉnh, liên tỉnh.

Các di tích ở Bắc Ninh chủ yếu là đền, đình , chùa hòa vào cảnh quan nên thơ, dân dã ở vùng làng quê tạo ra sức hút lớn đối với du khách, hàng năm thu hút 60% lượng khách, trong đó khách quốc tế chiếm tới 35 %, đặc biệt vào mùa lễ hội khách đến với Bắc Ninh rất đông, ở một số di tích có những lễ hội lớn như chùa dâu, chùa Phật Tích đôi khi vượt quá cả sức chứa.

Việc khai thác lễ hội ở Bắc Ninh diễn ra quanh năm nhưng tập rung chủ yếu vào mùa xuân thu hút lượng lớn khách du lịch nội địa . Các lễ hội như Hội Lim, Hội Kinh Dương Vương, Hội Dâu, hội Đền Đô…được tổ chức ngày càng quy mô và có trật tự hơn .

Tuy nhiên, trong quá trình khai thác các di sản, bộc lộ rất nhiều hạn chế và sai sót. Công tác bảo tồn các di sản chưa được tiến hành một cách thiết thực .Công

tác đầu tư, quy hoạch mới ở giai đoạn đầu, tiến độ thực hiện chậm, vốn ít. Đơn cư như khu du lịch văn hóa Đền Trầm đẫ được phê duyệt và lên kế hoạch xây dựng từ năm 2008 nhưng đến nay vẫn chưa khởi công móng được do công tác bồi thường đất chưa được giải quyết. Cho đến nay, chưa xây dựng được quy hoạch du lịch cho các làng du lịch hay làng Quan họ gốc, chưa có một kế hoạch tổng thể hay chiến lược lâu dài cho phát triển du lịch .Hoạt động du lịch hiện nay chỉ mang tính bộc phát, nhất thời khi khách có yêu cầu thì đáp ứng mà hầu như chưa được đầu tư một cách bài bản. Trình độ hướng dẫn viên du lịch không cao. Sự quan tâm của các cấp chính quyền chỉ dành cho một số di tích nổi tiếng ma xem nhẹ các di tích xung quanh , vi dụ như di tích đình Mão Điền trong 5 năm trở lại đây, đã bị người dân biến thành nơi họp chợ , bày bán nông sản ngày trong chính điện của đình . Với các lễ hội , các tệ nạn rong lễ hội vẫn diễn ra, việc thương mại hóa lễ hội cũng ngày càng rõ nét, khách du lịch đến lễ hội một lần mà không muốn đến lần thư 2. Đơn cử như hội Lim, hàng năm vẫn thu hút đông du khách nhưng cái hồn của hội dần biến mất khi mà Quan họ là linh hồn của hội thì ngày càng biến chất, hành đông ngả nón xin tiền của khách, hát đối đáp rời rạc… vô tình làm mất đi nét đẹp truyền thống của vùng Lim.

Công tác xây dựng sản phẩm du lịch chưa chuyên nghiệp mặc dù đã xác định 4 loại hình sản phẩm chính nhưng nó vẫn nghèo nàn và đơn điệu, thiếu các dịch vụ du lịch đạt chuẩn phục vụ khách, sản phẩm mang tính tự biên tự diễn, thô sơ, thiếu sức sáng tạo, chưa có một dịch vụ nào để lưu giữ khách ở lại lâu hơn.

2.3. Đánh giá chung hiện trang du lịch văn hóa tỉnh Bắc Ninh