• Không có kết quả nào được tìm thấy

Thời gian điều trị

Trong tài liệu ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (Trang 103-106)

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của nhóm nghiên cứu trước điều trị

4.2.1. Thời gian điều trị

bình thường hóa mặt nghiêng chứ không thể đạt được một thẩm mỹ mong muốn đó là hoàn toàn hết vẩu.

Góc mũi môi trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi 87,00 ± 8,240 nhỏ hơn 80 (>2SD)so với giá trị bình thường.Kết quả tương tự như của người Trung Quốc (86,60)và nhọn hơn so với nhóm bệnh nhân người Indonesia (970) [95] hay người Nhật 94,830[11]. Mức độ nhọn của góc mũi môi phản ánh mức độ vẩu của răng cửa trên. Đây có thể do nguồn gốc của người Việt từ xa xưa là người Trung quốc nên có một số đặc điểm hình thái sọ mặt tương đồng.

Chiều dày môi trên 14,2± 1,83 mỏng hơn so với giá trị trung bình (p< 0,05)và chiều dày môi dưới bình thường.

4.2. Sự thay đổi của răng, khớp cắn và mối tương quan giữa sự thay đổi mô cứng và mô mềm sau điều trị

liên kết vẫn còn hoạt động trong quá trình tăng trưởng xương ổ răng và tạo hình lại xương. Trong lớp xương xốp của xương ổ răng, có nguồn cung cấp mạch máu dồi dào trợ giúp quá trình chuyển hóa và trong vùng xương tủy khoảng tủy rộng cung cấp các bè xương với diện tích bề mặt đáng kể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của tế bào tiêu xương và tế bào tạo xương.

Dây chằng nha chu đóng một vai trò quan trọng trong tái tạo xương tại giao diện PDL - bềmặt xương ổ răng trong quá trình di chuyển răng. Hoạt động tăng sinh của các tế bào tạo sơ trong vùng PDL giảm dần theo tuổi do vậy ở người trẻ tuổi di chuyển răng nhanh hơn và hiệu quả hơn ở người lớn tuổi [127],[128],[129]. Do đó các nhà lâm sàng đều tin rằng điều trị cho bệnh nhân càng lớn tuổi thì càng khó, ít hiệu quả và mất lâu thời gian hơn điều trị cho trẻvị thành niên. Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian điều trị được tính từ lúc gắn mắc cài đến khiđược tháo ra kết thúc điều trị trung bình 27,8 tháng ≈ 2,3 năm lâu hơn so với kết quả của Freitas 2,09 năm [90] và của Dykenđối với nhóm bệnh nhân do sinh viên làm đạt tiêu chuẩn tốt nghiệp 23 tháng ≈ 1,9 năm nhưng lại nhanh hơn so với Dyken31,7 tháng ≈ 2,6 năm đối với nhóm bệnh nhân có kết quả điều trị đạt tiêu chuẩn cấp chứng chỉ hành nghề của hội đồng chỉnh nha Mỹ [87]. Dyken cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa thời gian điều trị của hai nhóm khẳng định mức độ của hoàn thiện khớp cắn cũng như vị trí cuối cùng của răng là một yếu tố ảnh hưởng đến thời gian điều trị, đặc biệt độ nghiêng của răng cửa theo chiều môi-vòm miệng/lưỡi.Dyken kết luận thời gian điều trị bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như mức độ lệch lạc khớp cắn, sự hợp tác của bệnh nhân, đáp ứng sinh học của từng các thể với lực, mức độ ăn nhai hay vệ sinh răng miệng...

Nghiên cứu này không cho thấy có mối tương quan thời gian điều trị với tuổi bệnh nhân bắt đầu điều trị.

Trong nghiên cứu, chúng tôi cũng không thấy có mối tương quan nào giữa tuổi của bệnh nhân bắt đầu điều trị với thời gian điều trị hay mức độ lệch lạc khớp cắn (Bảng 3.13). Do đó rất khó để dự đoán thời gian điều trị dựa vào các yếu tố biết trước như mức độ lệch lạc, kiểu lệch lạc, hay tuổi của bệnh nhân. Sự biến thiên về thời gian điều trị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chứ không chỉ có tuổi của bệnh nhân hay mức độ lệch khớp cắn. Thực tế lâm sàng cho thấydo một số bệnh nhân người lớn cảm thấy rất hài lòng với kết quả điều trị và không muốn kéo dài thêm thời gian điều trị nên yêu cầu kết thúc điều trị sớm hơn dự định, trái với bệnh nhân trẻ tuổi không có áp lực về thời gian. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến tốc độ dịch chuyển răng đó là người lớn dù dịch chuyển răng chậm hơn nhưng do họ có ý thức hợp tác với bác sĩ trong quá trình điều trị, vệ sinh răng miệng tốt, ít bong mắc cài nên không mất thời gian điều trị. Đây cũng có thể là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thời gian điều trị và làm sai lệch mối tương quan thời gian điều trị với tuổi bắt đầu điều trị.

Kết luận của chúng tôi cũng giống như các tác giả khác như Robb[130]. Ông nghiên cứu thời gian điều trị bằng cách chia hai nhóm bệnh nhân theo độ tuổi khác nhau: Nhóm bệnh nhân trẻ tuổi có tuổi trung bình 12,9 tuổi và nhóm bệnh nhân lớn tuổi có tuổi trung bình 31,3 tuổi, tất cả bệnh nhân đều có nhổ 4 răng hàm nhỏ và cùng được điều trị theo cùng một phác đồ giống nhau. Kết quả chỉ ra thời gian điều trị cũng như hiệu quả về mặt khớp cắn không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Robb kết luận việc đến không đúng hẹn và bong mắc cài/ hỏng dây giải thích 46% sự thay đổi đa dạng trong thời gian điều trị và 24% sự thay đổi đa dạng về kết quả điều trị. Hơn thế nữa, điều chỉnh tương quan khớp cắn phía sau và cắn chìa giải thích 46% sự biến thiên về thời gian điều trị. Alexander Dudic (2013) [128] khi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ di chuyển răng trên lâm sàng cũng đưa ra kết luận tương tự như chúng tôi, nhấn mạnh cản trở

khớp cắn là một yếu tố quan trọng làm giảm mức độ dịch chuyển mặc dù cũng kết luận tuổi trẻ có tốc độ di chuyển răng nhanh hơn.

Freitas kết luận có một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian điều trị đó là tuổi, giới, mức độ nghiêm trọng của khớp cắn, nhổ răng, kinh nghiệm của nhà lâm sàng và cả mức độ chịu đựng của bệnh nhân. Chúng tôi cũng nhận thấy mặc dù dịch chuyển răng của người lớn lâu hơn so với người trẻ nhưng do một số bệnh nhân người lớn không muốn kéo dài thời gian điều trị nên yêu cầu tháo hàm sớm mặc dù khớp cắn chưa được chuẩn theo tiêu chuẩn Andrew. 9,5% bệnh nhân có chỉ số PAR ban đầu <10 nên có thể coi khớp cắn bình thường.Tuy nhiên thời gian điều trị cho những bệnh nhân này lại vẫn bị kéo dài do vấn đề chính của bệnh nhân vẩu nặng nên thời gian chủ yếu tập trung vào kéo lùi khối răng trước ra sau.

Trong tài liệu ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (Trang 103-106)