• Không có kết quả nào được tìm thấy

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.7. ĐIỀU TRỊ

1.7.2. Điều trị một số loại u

1.7.2. Điều trị một số loại u

cGy [64]. Một nghiên cứu so sánh hai nhóm điều trị hóa chất và trị xạ, tuy liều giảm 280 cGy về đánh giá sự cải thiện tỷ lệ sống qua khỏi và di chứng.

Điều này một phận dựa trên một nghiên cứu 68 trẻ cho thấy xấp xỉ 80%

trường hợp sống qua được sau khi điều trị 280 cGy liệu pháp xạ trị nội sọ tủy sống và hỗ trợ sau trị xạ là hóa trị liệu với lomustin, vincristine và cisplastium [65]. Một nghiên cứu ngẫu nhiên 421 trẻ u nguyên tủy bào, tuổi từ 3 - 21 đã cho thấy tỷ lệ sống sau 5 năm là 81% [66].

Đối với bệnh nhân nhóm nguy cơ cao, có bằng chứng liệu pháp hóa trị liệu là có ích. Nghiên cứu được thực hiện hóa trị liệu cả trước và sau xạ trị đối với khối u có xâm lấn ở lúc chẩn đoán. Mặc dù sự đáp ứng có thể nhận thấy sau hóa trị liệu ban đầu trước khi xạ trị, nhưng không thấy bằng chứng cải thiện sự sống qua khỏi [2]. Tuy nhiên, chế độ thuốc tốt nhất đã không được xác định. Ở trẻ hơn 3 tuổi mắc u nguyên tủy bào, điều trị tiêu chuẩn đưa đến nguy cơ cao về các di chứng trí tuệ lâu dài quan trọng. Nhưng sự kết hợp như MOPP (meclophosphamide, ciplastinum, etoposide, và vincristin đã cho thấy khả năng kiểm soát ở các bệnh nhân sau phẫu thuật sẽ được ổn định trong lúc hóa trị liệu. Đây là sự thật đặc biệt cho những bệnh nhân như vậy với cắt bỏ u toàn bộ, các khối u không xâm lấn trước lúc bắt đầu điều trị. Các nghiên cứu được tiến hành để đánh giá kết quả của chế độ điều trị mạnh hơn để kiểm soát bệnh bằng mở đầu cho thấy chế độ điều trị tấn công có thể có hiệu quả hơn [2]. Một số bằng chứng đã cho thấy các bệnh nhân do đáp ứng hoàn toàn với hóa trị liệu không cần xạ trị. Các nghiên cứu cho thấy methotrexate bằng đường tĩnh mạch một cách hệ thống và với liều cao có thể cải thiện sự sống cho trẻ và tránh được xạ trị [38]. Tuy nhiên, các tiếp cận điều trị như vậy gây tác dụng phụ ngộ độc thần kinh. Cũng như vậy, các bệnh nhân tái phát với bệnh khu trú. Sự cứu sống lâu dài đã được thông báo sau khi điều trị lại với hóa trị liệu liều cao và xạ trị khu trú. Các

tiếp cận khác bao gồm bổ sung thêm xạ trị khu trú, đối với vị trí các khối u nguyên phát, theo sau hóa trị liệu cho những trẻ này bị xâm lấn và sự sử dụng malfosfamide, tiền hoạt chất cyclophos`phamide. Hai tiếp cận điều trị sau đó không cải thiện bệnh rõ ràng [38].

1.7.2.2. Điều trị u tế bào hình sao tiểu não

Tùy theo bậc của u tế bào hình sao, khối u được điều trị bằng 3 phương pháp: theo dõi, phẫu thuật, xạ trị. Trong nhiều trường hợp, tiếp cận tốt nhất là theo dõi u tế bào hình sao tiểu não bậc thấp liên tục với hình ảnh cộng hưởng từ não. Quan điểm phẫu thuật chỉ thực hiện khi khối u lành tính phát triển.

Với việc cắt bỏ hoàn toàn khối u không tái phát và kết quả lâu dài thường rất tốt. Trong khi xạ trị cục bộ có thể được sử dụng nếu khối u tiểu não phát triển hoặc phát triển trở lại sau phẫu thuật hoặc xạ trị mà còn hóa trị liệu được xem xét.

Do u tế bào hình sao phát triển rất chậm, các khối u bậc thấp có thể không cần điều trị gì hơn là giám sát chặt chẽ. Bệnh nhân có thể được giám sát qua chụp CHT định kỳ. Nếu khối u cho thấy dấu hiệu phát triển, có thể được điều trị bằng phẫu thuật hoặc xạ trị.

Phẫu thuật, mục đích phẫu thuật là cắt bỏ được khối u nhiều nhất có thể, chú ý làm giảm tối thiểu tổn thương cho mô lành. Khu trú và kích thước khối u sẽ xác định khả năng cắt bỏ nó. Cắt bỏ khối u sẽ làm giảm áp lực trong não, cải thiện triệu chứng, nếu toàn thể khối u không được lấy bỏ, phần còn lại sẽ được điều trị bằng xạ trị.

Xạ trị, áp dụng trong một số trường hợp, tùy từng hoàn cảnh, cắt bỏ hoàn toàn khối u là không có thể. Ví dụ, phẫu thuật viên thần kinh có thể cần lấy một phần khối u để tránh các tổn thương cấu trúc kế cận và khả năng nghiêm trọng đe dọa cuộc sống bệnh nhân. Trong các trường hợp này, xạ trị có thể được lựa chọn bổ sung thích hợp hoặc đơn thuần hặc kết hợp phẫu thuật tiếp

theo. Đối với trường hợp khối u tiểu não phẫu thuật gamma knife là cực kỳ chuẩn xác. Mục đích của điều trị là bắn phá khối u, với liều phá hủy cấu trúc, trong khi chỉ làm tổn thương tối thiểu các mô lành. Trong nhiều trường hợp, tiếp cận tốt nhất là giám sát các u tế bào hình sao bậc thấp liên tục, với định kỳ chụp cộng hưởng từ sọ não. Quan điểm phẫu thuật chỉ khi khối u tiến triển và tái phát, không những xạ trị mà hóa trị liệu là cần xem xét.

1.7.2.3. Điều trị u màng não thất

U màng não thất thường được điều trị bằng phẫu thuật. Phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là tối ưu nhất, kết hợp xạ trị. U màng não thất độ ác tính bậc cao (bao gồm u màng não thất độ III và u nguyên bào màng não thất) được điều trị giống như u nguyên tủy bào nhưng tiên lượng thì kém hơn nhiều. U màng não thất ác tính có thể được điều trị với sự kết hợp xạ trị và hóa trị liệu. U nguyên bào màng não thất xảy ra ở trẻ nhỏ hoặc trẻ em dưới 5 tuổi có thể lan vào dịch não tủy và cần phải điều trị tia xạ.

1.7.2.4. Điều trị một số u khác

Phẫu thuật cắt bỏ hết u là việc đầu tiên và cũng là quan trọng nhất.

Đối với u tế bào mầm (germ cell tumours) tùy theo tuổi và việc cắt bỏ hết u hay không, có thể điều trị tia xạ, hóa chất hoặc kết hợp cả 2.

U nhú đám rối mạch mạc (choroid plexus papilloma) phân độ grade 1 (WHO), sau khi phẫu thuật cắt bỏ hết u chỉ cần theo dõi định kỳ, nguy cơ tái phát đối với thể này là rất thấp [23].