• Không có kết quả nào được tìm thấy

Từ khóa: Đồng bằng Thừa Thiên Huế, trầm tích Holocen, lịch sử phát triển địa chất

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Từ khóa: Đồng bằng Thừa Thiên Huế, trầm tích Holocen, lịch sử phát triển địa chất"

Copied!
18
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

ĐẶC ĐIỂM CÁC TRẦM TÍCH HOLOCEN Ở ĐỒNG BẰNG THỪA THIÊN HUẾ

Vũ Quang Lân1, Trần Quang Phương1, Hoàng Ngô Tự Do2*

1 Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc

2 Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

* Email: hoangngotudo@hueuni.edu.vn Ngày nhận bài: 27/3/2020; ngày hoàn thành phản biện: 18/5/2020; ngày duyệt đăng: 02/7/2020 TÓM TẮT

Đồng bằng Thừa Thiên Huế với hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là đầm phá lớn nhất ở Đông Nam Á nằm trên một tập trầm tích Holocen có các đặc trưng như sau:

Các trầm tích Holocen có diện phân bố rộng rãi với nhiều kiểu nguồn gốc như sông, sông – biển, biển – sông – đầm lầy, biển, biển – gió, tạo nên các dạng địa hình khác nhau trên bề mặt đồng bằng. Theo mặt cắt đứng từ dưới lên trên, các trầm tích chuyển tướng từ trầm tích lòng sông – cửa sông/đầm lầy ven biển – vũng, vịnh biển – delta/đê cát, bãi triều – bãi bồi và lòng đầm phá thể hiện một chu kỳ biển tiến – biển lùi đã xảy ra trong Holocen. Lịch sử phát triển địa chất đồng bằng Thừa Thiên Huế trong Holocen bị chi phối bởi biển tiến Flandrian và hoạt động tân kiến tạo địa phương làm cho trầm tích Holocen có đặc điểm thành phần vật chất, cổ sinh, tướng trầm tích và bề dày khác nhau.

Từ khóa: Đồng bằng Thừa Thiên Huế, trầm tích Holocen, lịch sử phát triển địa chất.

1. MỞ ĐẦU

Đồng bằng Thừa Thiên - Huế là một trong những đồng bằng lớn ở miền Trung Việt Nam. Ở đây có hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là đầm phá lớn nhất ở Đông Nam Á. Đồng bằng Thừa Thiên - Huế (TTH) có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài gắn liền với hoạt động của sông và biển. Yếu tố quyết định đến hoạt động của sông và biển chính là tác động tương hỗ giữa sự thay đổi mực nước biển (theo các kỳ băng hà và gian băng) trong kỷ Đệ tứ và hoạt động tân kiến tạo địa phương.

Các công trình điều tra địa chất ở khu vực này chủ yếu tập trung phân chia các trầm tích Đệ tứ theo tuổi, nguồn gốc [1, 5, 6]. Các nghiên cứu chuyên đề chủ yếu tập trung nghiên cứu đặc điểm trầm tích đáy hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và các phức hệ Trùng lỗ chứa trong chúng [2]. Lịch sử phát triển các trầm tích Đệ tứ ở đồng

(2)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

bằng Quảng Trị - Thừa Thiên Huế được lập lại trên cơ sở liên hệ với sự thay đổi mực nước đại dương do ảnh hưởng của các kỳ băng hà và gian băng [7]. Tuy nhiên do còn thiếu các kết quả phân tích tuổi đồng vị, mà lịch sử phát triển địa chất đồng bằng TTH trong Holocen chưa được xác lập chính xác. Việc phân chia các đới cấu trúc tân kiến tạo [3] chủ yếu dựa vào đặc điểm địa mạo và trầm tích lộ trên mặt, chưa có tài liệu khoan sâu, cũng như mặt cắt nghiên cứu cấu trúc sâu dưới đồng bằng.

Trong bài báo này, lịch sử phát triển địa chất đồng bằng TTH trong Holocen được minh chứng dựa trên những dẫn liệu về đặc điểm địa hình, địa mạo; Đặc điểm trầm tích với nhiều kết quả phân tích tuổi đồng vị C14, và được xem xét trong mối tác động tương hỗ giữa sự thay đổi mực nước biển với các chuyển động nâng hạ trong tân kiến tạo. Kết quả của bài báo sẽ là những đóng góp của tác giả bổ sung cho công tác nghiên cứu trầm tích Đệ tứ nói chung và trầm tích Holocen nói riêng ở đồng bằng này.

2. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong khuôn khổ bài báo này, các tài liệu và phương pháp nghiên cứu sau được sử dụng.

2.1. Tài liệu

- Tài liệu của đề tài “Nghiên cứu di sản địa chất làm cơ sở khoa học để thành lập công viên địa chất toàn cầu ở khu vực Tam Giang – Bạch Mã”, Mã số ĐT ĐL.CN-05/18.

- Tài liệu của chương trình nghiên cứu đánh giá khả năng tác động của việc xây dựng đầm Tả Trạch (Thừa Thiên Huế) đến sự bền vững của hệ đầm phá (SAROF phase II). Tác giả sử dụng tài liệu khoan và kết quả phân tích mẫu của 02 lỗ khoan là LK C-1 và LK C-2 trong luận giải lịch sử phát triển trầm tích Holocen.

- Tài liệu của đề án lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Huế [5]. Tác giả sử dụng cột địa tầng nguyên thủy của 4 lỗ khoan là Hu6, Hu6a, Hu7 và Hu8 (tác giả bài báo là người trực tiếp thành lập cột địa tầng các lỗ khoan này) và kết quả phân tích mẫu của đề án này.

2.2. Phương pháp

Phương pháp xử lý, tổng hợp tài liệu

Xử lý, tổng hợp tài liệu có trước để đối sánh với các tài liệu mới trong việc lập lại cột địa tầng trầm tích Holocen, cũng như nghiên cứu sự thay đổi về thành phần và môi trường thành tạo của các trầm tích này theo chiều ngang và chiều thẳng đứng.

Phương pháp phân tích ảnh viễn thám

Công tác giải đoán ảnh vệ tinh, ảnh máy bay trên diện tích nghiên cứu để thành lập bản đồ địa chất ảnh và bản đồ địa mạo ảnh tỷ lệ 1:50.000 cùng các sản phẩm khác.

(3)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Trên bản đồ địa chất ảnh và bản đồ địa mạo ảnh khoanh định đối tượng địa chất và địa mạo là các thành tạo Holocen và các thành tạo trước Holocen để định hướng cho công tác khảo sát thực địa đạt hiệu quả.

Phương pháp khảo sát thực địa

Các tác giả đã thực hiện 12 tuyến khảo sát với trên 100 km lộ trình. Các tuyến khảo sát được bố trí vuông góc với phương cấu trúc địa chất nhằm khoanh vẽ, mô tả các thành tạo địa chất, địa mạo; đồng thời lấy các loại mẫu phục vụ cho công tác gia công, phân tích.

Công tác lấy mẫu

Mẫu phân tích độ hạt, cổ sinh, địa hóa môi trường, tuổi đồng vị C14 được lấy từ mẫu trên mặt (trong vỉa lộ, hố đào). Mẫu trên mặt được lấy sau khi đã bỏ lớp đất trồng và lấy theo rãnh cắt vuông góc với lớp trầm tích. Mẫu lõi khoan được xẻ đôi theo chiều dài mẫu, một nửa lõi khoan được dùng để lấy mẫu phân tích các loại, nửa còn lại để lưu.

Gia công, phân tích mẫu

- Mẫu độ hạt: sau khi gia công, các cấp hạt được chia tách bằng bộ rây và pipet.

Các kết quả phân tích độ hạt được xử lý trên máy tính hoặc xây dựng đường cong tích lũy độ hạt để từ đó tính được các hệ số độ hạt. Kết quả phân tích độ hạt bao gồm:

thành phần trầm tích theo các cấp hạt khác nhau; các hệ số độ hạt: kích thước hạt trung bình (Md), hệ số chọn lọc (So) và hệ số bất đối xứng (Sk). Đây là những thông số quan trọng trong nghiên cứu các trầm tích Đệ tứ. Đề tài phân tích 30 mẫu độ hạt, ngoài ra còn sử dụng kết quả phân tích của trên 300 mẫu độ hạt của công trình có trước [5].

- Mẫu cổ sinh (bào tử phấn hoa, vi cổ sinh, tảo): Mẫu trầm tích đưa vào phân tích phải chứa nhiều hạt mịn, cỡ cát mịn, bột, sét. Mẫu sau gia công, được soi trên kính hiển vi để xác định thành phần giống, loài cổ sinh có trong mẫu. Các số liệu phân tích được xử lý bằng phương pháp thống kê để xác định những giống, loài chiếm ưu thế;

từ đó xác định tuổi và môi trường thành tạo trầm tích. Đề tài phân tích 20 mẫu cổ sinh mỗi loại, ngoài ra còn sử dụng kết quả của trên 100 mẫu phân tích cổ sinh mỗi loại của công trình có trước [5].

- Các hệ số địa hoá môi trường như độ pH, thế oxy hoá - khử (Eh), kation trao đổi (Kt)... là những chỉ số rất quan trọng để xác định tính chất của môi trường trầm tích. Mẫu dùng cho phân tích địa hóa môi trường là mẫu có độ hạt mịn, thường là sét, sét bột. Các hệ số này được xác định bằng các thiết bị phân tích chuyên dùng. Đề tài phân tích 15 mẫu mỗi loại và sử dụng 50 mẫu mỗi loại của công trình có trước [5].

- Mẫu tuổi đồng vị C14: đề tài phân tích 03 mẫu C14 tại Viện Khảo cổ học; 06 mẫu của dự án SAROF phase II được phân tích tại phòng thí nghiệm Nhật Bản.

(4)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế 3. KẾT QUẢ

3.1. Kết quả nghiên cứu về địa hình, địa mạo Thềm biển và các đê cát, cồn cát ven biển

Các bậc thềm biển là kết quả của quá trình trầm tích lâu dài trong điều kiện mực nước biển tương đối ổn định. Trên diện tích đồng bằng TTH, có 2 bậc thềm biển:

- Thềm biển bậc II phân bố dọc theo ven rìa đồng bằng TTH ở Phong Điền, Quảng Điền, Đàn Nam Giao và Phú Bài; chúng trùng với diện lộ trên mặt của trầm tích mQ13 (ảnh 1). Đây là những thềm biển cổ còn sót lại trên độ cao từ 10-15m, có bề mặt khá bằng phẳng với các gò đụn, diện tích nhỏ kéo dài không liên tục. Trầm tích thành tạo thềm biển này gồm cát, cát bột màu vàng sẫm, bề mặt bị phong hoá yếu, khá cứng chắc. Trong trầm tích tạo thềm biển bậc II ở Đàn Nam Giao đã phát hiện các vi cổ sinh Elphidium sp., Nonion sp., Ammonia sp., Miliolina sp. môi trường biển ven bờ, tuổi Pleistocen muộn [5].

- Thềm biển bậc I phân bố chủ yếu ở trung tâm đồng bằng và rìa dải đê cát ven biển thuộc các huyện Phong Điền, Quảng Điền và Phú Vang; chúng trùng với diện lộ trên mặt của trầm tích mQ2 (hình 1, 2, ảnh 2), tạo địa hình cao từ 8 - 10m. Đây là các thành tạo cát trắng, xám trắng chiếm diện tích lớn nhất, tạo nên nét đặc trưng nhất ở dải đồng bằng TTH. Tuổi của trầm tích tạo nên thềm biển bậc I được đối sánh với tuổi của các trầm tích đầm phá giàu di tích cổ sinh cùng được thành tạo trong kỳ biển tiến cực đại vào Holocen sớm - giữa.

Hình 1. Thềm biển bậc I và dải đê cát, cồn cát ven biển ở huyện Phong Điền, Quảng Điền (trên ảnh Landsat)

- Dải đê cát, cồn cát ven biển kéo dài từ Tây Bắc đến Đông Nam của vùng nghiên cứu; chúng trùng với diện phân bố của các trầm tích m, mvQ2 (hình 1, 2, ảnh 3).

Địa hình này có độ cao 10-30m. Các thành tạo cát có nguồn gốc ban đầu do biển, sau do hoạt động của gió tạo thành nhiều gờ, đụn nổi cao. Thành phần là cát màu vàng nhạt, tuổi Holocen giữa-muộn.

(5)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Các bề mặt mài mòn do hoạt động của biển

Trong các kỳ biển tiến, khi mực nước biển ổn định trong một thời gian, do hoạt động của sóng biển, thường để lại dấu vết mài mòn trên các đá phân bố dọc theo ven biển. Ở TTH, dấu vết mài mòn do hoạt động của biển còn để lại khá rõ ràng trên đá granit ở khu vực ven biển Phú Lộc. Tại đây, quan sát được 2 mức mài mòn do biển để lại trên đá granit:

Ảnh 1. Thềm biển bậc II ở thị trấn Phú Bài

Ảnh 2. Thềm biển bậc I ở Phong Chương, Phong Điền

Ảnh 3. Dải đê cát ven biển ở phía bắc cửa Thuận An - Bề mặt mài mòn ở độ cao 7-10m: gặp ở ven đầm An Cư với kích thước dài 200m, rộng 150-200m hình tròn; bề mặt khá bằng và rộng, lộ trơ toàn đá granit hạt vừa - thô thuộc pha 1 phức hệ Hải Vân; trên bề mặt có một số cuội granit được mài tròn tốt (ảnh 4). Ngoài ra còn gặp dấu vết mài mòn của biển rải rác ở ven bờ vịnh Chân Mây (bề mặt 1 trên ảnh 5) và ở Đông Dương, xã Vinh Hiền. Mực nước biển trong thời kỳ thành tạo nên bề mặt mài mòn này được liên hệ tương ứng với mực nước biển trong thời gian biển tiến vào Pleistocen muộn thành tạo thềm biển bậc II, cũng như các trầm tích biển chứa nhiều cổ sinh phân bố ở đồng bằng, dưới các trầm tích Holocen.

Ảnh 4. Bề mặt mài mòn (1) do hoạt động của biển trên đá granit ở độ cao khoảng 10m ở

đầm An Cư, Phú Lộc.

Ảnh 5. Bề mặt mài mòn do hoạt động của biển trên đá granit ở độ cao khoảng 7m (1) và độ cao khoảng 3m (2) ở ven bờ vịnh Chân Mây.

- Bề mặt mài mòn ở độ cao khoảng 3m: gặp ở ven bờ vịnh Chân Mây (bề mặt 2 trên ảnh 5) và ở xóm Đầm, xã Lộc Bình. Liên hệ về độ cao giữa bề mặt này với bề mặt thềm biển bậc I, với các trầm tích vũng vịnh biển tuổi Holocen sớm – giữa phân bố

2

1

1

(6)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

dưới đồng bằng và lớp vỏ sinh vật biển được thành tạo trong kỳ biển tiến Holocen sớm – giữa phân bố ở đáy đầm Lập An có thể thấy là bề mặt mài mòn này tương ứng với mực nước biển cổ trong Holocen.

3.2. Đặc điểm các trầm tích Holocen

Trên mặt đồng bằng, trầm tích Holocen có diện lộ rộng rãi, chiếm hầu hết diện tích đồng bằng; bao gồm các trầm tích sông (a), sông – biển (am), biển (m), biển-sông- đầm lầy (mab), biển, biển - gió (m, mv). Trong đó, trầm tích sông phân bố ở lòng sông và bãi bồi của các sông lớn như sông Hương, sông Bồ; trầm tích sông - biển chủ yếu tạo nên địa hình đồng bằng ở Quảng Điền, Hương Trà, Huế, Phú Vang và Hương Thủy;

trầm tích biển tạo địa hình cát nổi cao ở Phong Điền - Quảng Điền và Phú Vang; trầm tích biển - sông - đầm lầy phân bố trong các bàu trằm nằm giữa các dải cát nội đồng và ven theo rìa đầm phá; các trầm tích biển, biển - gió tạo nên địa hình đê cát, cồn cát và bãi biển kéo dài từ Hải Lăng đến cửa Tư Hiền (hình 2).

Hình 2. Đặc điểm phân bố các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

Địa tầng trầm tích Holocen được nghiên cứu qua cột địa tầng của các lỗ khoan Hu6, Hu6a, Hu7, Hu8, C-1 và C-2 (hình 2, 2a, 2b và 2c). Theo chiều sâu từ dưới lên trên, trầm tích Holocen gồm các tướng trầm tích sau: lòng sông; cửa sông; đầm lầy ven biển; vũng, vịnh biển; delta; đê cát, bãi triều; bãi bồi và lòng đầm phá. Phía dưới trầm tích Holocen phủ không chỉnh hợp lên trên trầm tích Pleistocen muộn.

3.2.1. Trầm tích lòng sông

Trầm tích lòng sông có thành phần hạt thô, chủ yếu gồm cuội, sỏi, sạn và cát gặp trong 3 lỗ khoan là Hu6, Hu6a và Hu7 ở độ sâu từ 19,5m đến 49,4m. Bề dày từ 2,3m (LKHu6) đến 11,1m (LKHu7).

(7)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Tại LKHu7 (từ 49,4-36,3m) là cuội, sỏi sạn, cát lẫn bột màu xám đen. Kích thước cuội sỏi từ 1-3cm, thành phần là thạch anh, silic. Lớp cuội sỏi này phủ không chỉnh hợp trên lớp than bùn màu đen thuộc trầm tích tuổi Pleistocen muộn.

Hình 2a. Mặt cắt liên hệ địa tầng trầm tích Holocen theo tuyến AB

Hình 2b. Mặt cắt liên hệ địa tầng trầm tích Holocen theo tuyến CD

Hình 2c. Mặt cắt liên hệ địa tầng trầm tích Holocen theo tuyến EF (LK93-4 tham khảo

từ tài liệu [1])

3.2.2. Trầm tích cửa sông

Trầm tích cửa sông có thành phần hạt mịn, chủ yếu là sét bột gặp trong 2 lỗ khoan Hu7 và Hu8 ở độ sâu từ 14,7m đến 36,3m. Bề dày từ 7,3m (LKHu7) đến 9,8m (LKHu8).

Tại LKHu7 (từ 36-29m) là sét bột, bột sét lẫn ít cát hạt mịn màu xám, xám đen có lẫn nhiều mảnh vỏ động vật. Trong trầm tích có chứa bào tử phấn hoa gồm:

Acrostichum sp., Acanthus sp., Hibiscus sp., và tảo mặn Thalasiosira sp., Cyclotella sp.

Tại LKHu7, trầm tích cửa sông nằm chuyển tiếp trên trầm tích lòng sông cùng tuổi; còn tại LKHu8, các trầm tích này nằm phủ không chỉnh hợp trên trầm tích biển tuổi Pleistocen muộn.

(8)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế 3.2.3. Trầm tích đầm lầy ven biển

Trầm tích đầm lầy ven biển chủ yếu là hạt mịn chứa di tích thực vật gặp trong LKHu6 và LKHu6a ở độ sâu 17,2m đến 41,6m. Bề dày từ 2,3m (LKHu6) đến 5,3m (LKHu6a).

Tại LKHu6 (từ 19,5-17,2m) là sét bột màu xám đen nhạt, dẻo quánh, không phân lớp có lẫn nhiều di tích thực vật màu đen. Trầm tích chứa bào tử phấn hoa:

Polypodium sp., Osmunda sp., Pteris sp., Canabis sp.,... vi cổ sinh Candonopsis sp., Ilyocypris sp., Candona sp. Các hệ số địa hóa môi trường pH: 7,1; thế oxy hóa – khử (Eh):

5-38 mV cho thấy môi trường trầm tích là đầm lầy ven biển, có tính khử yếu.

3.2.4. Trầm tích vũng, vịnh biển

Trầm tích vũng, vịnh biển có thành phần chủ yếu gồm bột, sét bột, bột sét lẫn cát phân bố ở độ sâu từ 8m (LKHu7) đến hơn 45m (LHC-2). Bề dày từ 21m (LKHu7) đến hơn 33m (LKC-2).

Tại LKHu7 (từ 29-8m) là sét bột, bột sét lẫn cát hạt mịn màu xám, xám đen, mẫu ở dạng bùn lỏng; chứa nhiều vỏ, mảnh vỏ ốc, hến; từ 19-24m có lẫn nhiều di tích thực vật màu đen. Trong trầm tích chứa phong phú vi cổ sinh: Ammonia sp., Elphidium sp., Quinqueloculina sp., Spiroloculina sp.,... tảo: Coscinodiscus sp., Navicula sp., Actinocyclus sp., Pinnularia sp., bào tử phấn hoa Polypodium sp., Cyathea sp., Acrostichum sp., Acanthus sp... Các hệ số địa hóa môi trường pH: 6,9-7,5; cation trao đổi (Kt) >1 đều xác định trầm tích được thành tạo trong môi trường biển.

Kết quả phân tích 5 mẫu đồng vị C14 cho giá trị 9100 - 6680 năm cách ngày nay (dự án SAROF phase II), tương ứng với kỳ biển tiến Flandrian.

3.2.5. Trầm tích delta

Trầm tích delta có thành phần chủ yếu là bột sét, bột cát phân bố từ trên mặt (LKHu6 và LKC-1) đến 12m (LKC-2). Bề dày thay đổi từ 5,4m (LKHu6) đến 8m (LKC-2).

Tại LKHu6 (từ 5,4-0m) là bột cát, bột sét màu xám, xám vàng. Trong trầm tích có chứa bào tử phấn hoa: Polypodium sp., Taxus sp. và vài dạng vi cổ sinh Condona sp., Ilyocypris sp.

Kết quả phân tích 1 mẫu tuổi đồng vị C14 ở độ sâu 5m trong LKC-2 cho giá trị 230±40 năm cách nay. Qua kết quả phân tích mẫu C14 ở LKC-2 cho thấy quá trình phát triển của trầm tích delta tại đây kéo dài liên tục trong khoảng thời gian 6680 – 230 năm cách ngày nay (hình 2b).

3.2.6. Trầm tích đê cát, bãi triều

Trầm tích đê cát, bãi triều có thành phần chủ yếu là cát thạch anh hạt trung đến hạt nhỏ màu xám trắng, trắng lẫn sạn sỏi và ít bột phân bố ở độ sâu từ 2,8m (LKHu8) đến 19,2m (LKHu6a). Bề dày thay đổi từ 11,8m (LKHu6) đến 14m (LKHu6a).

(9)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Tại LKHu8 (từ 14,7-2,8m) là cát hạt nhỏ, hạt trung lẫn ít sạn sỏi, bột màu trắng, trắng xám. Cát có thành phần thạch anh chiếm tới 98-99%. Theo mặt cắt từ dưới lên trên, trầm tích có độ hạt thô dần, thể hiện động lực môi trường tăng dần, từ môi trường biển nông ven bờ sang bãi triều có hoạt động mạnh của sóng. Trong trầm tích chứa vi cổ sinh Ammonia beccari, Ammonia sp., Quinqueloculina sp., Elphidium sp., xác định môi trường ven biển.

3.2.7. Trầm tích bãi bồi và lòng đầm phá

Trầm tích bãi bồi và lòng đầm phá là các thành tạo trẻ nhất, gồm chủ yếu là cát lẫn bột, ít sạn lộ ngay trên mặt địa hình hoặc ở đáy đầm phá. Bề dày thay đổi từ 0,85m (LKC-1) đến 5,2m (LKHu6a).

Tại LKHu6a (từ 5,2-0m) là cát lẫn bột, ít sạn thạch anh màu xám, xám trắng;

phần trên lẫn di tích thực vật màu đen. Trong trầm tích có chứa vi cổ sinh: Ammonia sp., Quinqueloculina sp., Elphidium sp., Discorbis sp.; bào tử phấn hoa: Polypodium sp., Osmunda sp., Cyathea sp., Taxodium sp., Quercus sp.

Như vậy, theo mặt cắt đứng từ dưới lên trên, các trầm tích Holocen chuyển tướng từ trầm tích lòng sông – cửa sông/đầm lầy ven biển – vũng, vịnh biển – delta/đê cát, bãi triều – bãi bồi và lòng đầm phá thể hiện một chu kỳ biển tiến – biển lùi đã xảy ra trong Holocen.

3.3. Đặc điểm tân kiến tạo

Trong tân kiến tạo (TKT), ở đồng bằng TTH xảy ra hoạt động nâng ở phần diện tích phía Tây và sụt lún ở phần diện tích phía Đông. Ranh giới giữa vùng nâng và vùng sụt lún là đứt gãy Phong Điền - Phú Vang [7].

Vùng nâng TKT được chia làm 3 đới (hình 3): Đới nâng TKT trên móng Paleozoi – Mesozoi, Đới sụt trong Đệ tứ trên móng Paleozoi và Đới Đầm Cầu Hai – sụt lún trong Holocen muộn trên nền đá granit. Ở đáy đầm Cầu Hai, các trầm tích Holocen tạo thành lớp mỏng phủ trên bề mặt lồi lõm của đá granit.

Vùng sụt lún TKT: Do hoạt động nâng hạ khối tảng, cấu trúc vùng sụt lún TKT được chia thành 3 đới như sau (hình 3):

Đới Phá Tam Giang (PTG – II1): nằm về phía tây đứt gãy Sông Tả Trạch. Trong mối tương quan với nâng chân tĩnh của mực nước biển, đới PTG tương đối ổn định về mặt kiến tạo trong Holocen. Trầm tích Đệ tứ có chiều dày lớn nhất đạt 116,5m, chiều dày trầm tích Holocen lớn nhất đạt 49,4m.

Đới hạ lưu sông Hương (HLSH–II2): nằm kẹp giữa đứt gãy Sông Tả Trạch và đứt gãy Sông Hữu Trạch. Đới HLSH là một graben sụt chìm với biên độ lớn nhất trong toàn bộ hệ đầm phá. Trầm tích Đệ tứ có chiều dày lớn nhất đạt 164m, trầm tích Kainozoi có chiều dày lớn hơn 273m.

(10)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

Đới đầm Thủy Tú (ĐTT – II3): được giới hạn bởi đứt gãy Sông Hữu Trạch ở phía tây bắc và đứt gãy Phú Lộc ở phía đông nam. Về mặt địa động lực, đới đầm Thủy Tú tương tự như đới Phá Tam Giang về tính ổn định trong suốt Holocen. Trầm tích Đệ tứ có chiều dày lớn nhất đạt 89,6m, chiều dày trầm tích Holocen lớn nhất đạt 24,5m.

Hình 3. Sơ đồ phân vùng tân kiến tạo đồng bằng Thừa Thiên Huế

4. THẢO LUẬN

4.1. Về quá trình phát triển đồng bằng Thừa Thiên Huế trong Holocen

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về địa hình, địa mạo, trầm tích và đặc điểm tân kiến tạo nêu trên, có thể lập lại lịch sử phát triển địa chất đồng bằng Thừa Thiên Huế trong Holocen như sau:

Giai đoạn Holocen sớm - giữa

Holocen sớm - giữa là giai đoạn tương ứng với kỳ biển tiến Flandrian. Từ khoảng 16.000 năm cách ngày nay, mực nước biển bắt đầu dâng lên. Trong khi mực nước biển tiếp tục dâng cao thì vùng đồng bằng TTH vẫn là lục địa; trong các lỗ khoan Hu6, Hu6a, Hu7 gặp một lớp trầm tích hạt thô tướng lòng sông nằm lót đáy trầm tích Holocen và phủ không chỉnh hợp trên bề mặt bóc mòn của các trầm tích tuổi Pleistocen muộn (hình 4).

(11)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Hình 4. Sơ đồ phân bố các lòng sông cổ vào đầu Holocen

Hình 5. Sơ đồ phân bố các trầm tích trong kỳ biển tiến cực đại Holocen sớm-giữa

Trong quá trình dâng cao, mực nước biển xâm nhập vào đồng bằng đầu tiên là ở các cửa sông (là nơi có độ phân cắt sâu lớn nhất). Môi trường trầm tích chuyển từ lòng sông (tại LKHu6, LKHu6a và LKHu7), cửa sông (LKHu8) sang môi trường đầm lầy ven biển (LKHu6, LKHu6a); sau đó là môi trường vũng, vịnh biển (LKHu6a, LKHu7, LKC-1, LKC-2) và môi trường thành tạo nên đê cát, bãi triều (LKHu6 và LKHu8). Trong thời kỳ này, ở vùng nghiên cứu đã xuất hiện một vịnh biển cổ có diện phân bố gần như trùng với đới sụt lún hạ lưu sông Hương. Giới hạn phía Bắc của vịnh biển cổ này là khu vực thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền (LKHu6), phía Nam là khu vực Phú Xuân, huyện Phú Vang (LKHu8), còn giới hạn phía Tây ven theo QL1A (hình 5).

Trong quá trình thay đổi mực nước biển, vịnh biển cổ này nông dần và được thu hẹp dần; sau đó được lấy dần bởi các trầm tích delta trong giai đoạn sau. Về phía Bắc và phía Nam của vịnh biển này là môi trường ven bờ hình thành các bãi cát, cồn cát ven biển. Sự có mặt của cát thạch anh màu trắng, trắng xám phân bố dọc theo QL1A ở Phong Điền và Phú Bài, cho thấy mực nước biển đã vào tới ven rìa đồng bằng khi đạt cực đại (hình 5, ảnh 6).

Ảnh 6. Cát trắng nguồn gốc biển tuổi Q21-2

phủ trên bề mặt cát vàng sẫm nguồn gốc biển tuổi Q13 ở Phú Bài

(12)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

Sự thay đổi mực nước biển và điều kiện cổ khí hậu trong kỳ biển tiến Flandrian được phân tích qua tài liệu của LKC-2 (lỗ khoan này có chiều sâu 45m, nhưng chưa đạt tới đáy trầm tích Holocen). Phần thấp nhất của lỗ khoan (từ 45m đến 26m) là các trầm tích biển với thành phần chủ yếu là sét pha bột tương ứng với môi trường biển tương đối sâu và mực biển ổn định. Từ 26 đến 23m, trầm tích chủ yếu là sét bột pha cát thể hiện có sự thay đổi trong môi trường tích tụ, thể hiện bằng tướng trầm tích biển nông.

Trầm tích giữa độ sâu 23 và 12m bao gồm bùn (bột, sét), cát thể hiện điều kiện môi trường nội vịnh với thành phần các lớp bùn tăng dần. Điều cần chú ý là ở khu vực này ngoài các trầm tích được thành tạo trong môi trường biển, còn có vật liệu do sông mang tới nên sự thay đổi về thành phần của trầm tích phụ thuộc vào sự thay đổi mực nước biển và nguồn cung cấp vật liệu từ sông. Sự thay đổi tướng trầm tích trên đây phù hợp với sự thay đổi môi trường từ biển sang nội vịnh được phản ánh qua các hoá thạch nhuyễn thể, bao gồm Stenothyra basia, Cylichinathys angusta và Retusa ingignis (do TS Matsushima xác định) trong trầm tích nằm dưới độ sâu 34m. Các hoá thạch này sống trong môi trường biển, xác định có sự dâng cao mực biển vào khoảng thời gian 8000 năm trước (tuổi C14).

Ở phần trên, trong trầm tích nằm ở độ sâu 17,9 m của LKC-2 gặp lớp cát chứa nhuyễn thể chỉ thị cho môi trường nước nông hơn với phong phú các loài Alvenius ojianus, Veremolpa micra, và Pillucina pisidium (do TS Matsushima xác định). Như vậy môi trường nội vịnh đã thay đổi từ điều kiện biển nông sang môi trường bãi triều liên quan với sự dâng chậm của mực biển. Hơn nữa, môi trường nội vịnh liên quan gần gũi với môi trường biển mở thể hiện bằng sự hiện diện của Cabolinia sp., và gần gũi cả với môi trường cửa sông với sự có mặt của các nhuyễn thể Diala stricta và Semisculcosspira sp., và môi trường nội vịnh dồi dào thức ăn cho các loài này phát triển.

Ở độ sâu 14,3m (vào khoảng 6790 năm trước - tuổi C14, LKC-2) trong lớp cát và bùn thuộc tướng phần sâu của đới triều gặp chủ yếu các loài nhuyễn thể Alvenius ojianus và Veremolpa micra, Fulvia hungrefordi. Phức hệ động vật này xác định môi trường nội vịnh nơi nước biển từ biển mở có thể tràn vào xâm lấn vịnh. Phức hệ nhuyễn thể Veremolpa micra, Pillucina pisidium, Paphia undulata, Fulvia hungrefordi liên quan với môi trường tương đối sâu hơn. Phức hệ hoá thạch này gặp trong trầm tích nằm giữa độ sâu 14,3m và 12,4 m. Như vậy trầm tích nằm dưới độ sâu 12,4m trong LKC-2 đã được thành tạo trong môi trường biển, và chúng được coi là trầm tích của đợt biển tiến Flandrian (9100-6680 năm trước).

Từ 12-4m, với chiều dày 8m là các trầm tích delta phủ trên trầm tích biển tiến Flandrian. Phần trên cùng của tầng trầm tích delta này chứa phức hệ nhuyễn thể đặc trưng bằng sự phổ biến của các loài sống trong môi trường triều nông của vịnh kín như Cerithidea cingulata, Clypeomorus coralium.

(13)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Các tài liệu phân tích bào tử phấn hoa (do GS Yamanoi, trường Đại học Yamagata xác định) từ LKC-2 cho thấy đới phấn hoa nằm ở độ sâu trên 44m đặc trưng bằng sự ưu thế của các bụi than (charcoal) và vắng mặt các bào tử và phấn hoa của lan và dương xỉ. Sự ưu trội của các bụi than (điều kiện khô cạn) so với bào tử thực vật cho thấy đây là một thời kỳ lạnh, khí hậu khô và mực biển ở khá xa, thấp hơn so với mực biển hiện tại. Tầng trầm tích này trong LKC-2 vắng mặt hoàn toàn tảo diatome (được TS T. Kashima, trường Đại học Kyushu xác định), phù hợp với đặc điểm điều kiện khí hậu lạnh và thế giới thực vật nghèo nàn.

Thế giới thực vật ở đới phấn hoa nằm ở độ sâu 22,5 m cơ bản có sự pha trộn của thực vật (rừng) miền núi như sự có mặt của Podocarpus, Dacrydium, Pinus, Castanosis và Quercus. Hơn nữa, trong đới này còn xuất hiện các loài đước như Excoecaria, Sonneratia, Bruguiera và Avicennis. Các đặc điểm này chứng tỏ cây rừng thực tế có bản chất lục địa với sự kết thúc của môi trường gần biển trong thời gian từ 7000 đến 6000 năm trước (do GS Yamanoi, trường Đại học Yamagata xác định).

Diatome trong lõi LKC-2 nằm giữa độ sâu 25,5 và 12m mang đặc điểm pha trộn các loài nước ngọt với các loài nước lợ, chứng tỏ môi trường lắng đọng trầm tích là gần bờ với đặc điểm của môi trường từ lục địa đến môi trường đầm phá. Hơn nữa các loài nước ngọt giảm dần ở độ sâu sâu hơn 15m, chứng tỏ đã có sự xâm lấn của nước biển vào lục địa trong thời gian đó. Tài liệu tuổi đồng vị 14C có giá trị tuổi 6680 năm cho mẫu ở độ sâu 13,2m. Thời gian nay tương ứng với thời kỳ khí hậu trái đất lạnh (đối với những vùng có vĩ độ trung bình), và sự thay đổi tướng trầm tích tại độ sâu 12,1m ở LKC-2 phản ánh sự thay đổi môi trường lắng đọng trầm tích liên quan với sự hạ thấp mực biển trong thời kỳ đó.

Từ những mô tả trên đây có thể thấy trầm tích ở độ sâu trên 30m trong LKC-2 có các loài nhuyễn thể phản ánh mực biển dâng cao và đạt mức cực đại ổn định ở độ sâu 26m. Sau đó mực biển bắt đầu hạ với các dấu hiệu trầm tích biển nông bắt đầu ở độ sâu 23m và môi trường trầm tích trở thành môi trường nội vịnh (vịnh kín) ở độ sâu 14m. Ranh giới giữa trầm tích biển sâu với trầm tích biển nông trong LKC-2 ở độ sâu 26m, giữa trầm tích biển nông với trầm tích delta ở độ sâu 12m (hình 2b). Điều này phù hợp với sự dâng mực biển trong khoảng thời gian 10.000 - 6680 năm trước do khí hậu trái đất ấm lên, và đã được phản ánh trong đặc điểm của các di tích bào tử phấn hoa và diatome trong trầm tích LKC-2.

Giai đoạn Holocen giữa - muộn

Holocen giữa - muộn chủ yếu là thời kỳ biển lùi sau biển tiến Flandrian. Khi mực nước biển lùi dần, hoạt động của sông được tăng cường hơn. Ở khu vực cửa sông Hương, sông Bồ, môi trường trầm tích vũng, vịnh biển được thay bằng môi trường delta với nguồn vật liệu trầm tích chủ yếu do sông mang tới (LKC-1, LKC-2 và LKHu7). Khu vực đồng bằng thấp của TTH được thành tạo từ trầm tích delta trong bối

(14)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

cảnh mực nước biển rút dần khỏi đồng bằng. Ở phía Bắc và Nam cửa sông Hương, quá trình biển lùi đã hình thành nên các dải cồn cát, đê cát nổi cao, xen giữa là các dải địa hình trũng thấp (dạng lạch triều) chứa các lớp than bùn. Các thành tạo cát nội đồng phân bố rộng rãi ở Phong Điền, Quảng Điền và Phú Vang.

Với sự tồn tại của các địa điểm Khảo cổ học Cồn Ràng, Cồn Dài và Cửa Thiềng thuộc Văn hóa Sa Huỳnh phân bố trên địa bàn xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, có thể khẳng định là cách ngày nay khoảng 3300 đến 2260 năm [4], khu vực dọc theo QL1A hoàn toàn không còn bị ảnh hưởng của biển.

Phân tích 3 mẫu tuổi đồng vị C14 cho thân và rễ cây đang hóa than trong các trằm, bàu ở khu vực Phong Điền cho kết quả 2330±65 đến 2570±70 năm cách ngày nay, cho thấy vào khoảng thời gian này đã xảy ra quá trình đầm lầy hóa trong các lạch trũng giữa các gờ cát được hình thành trong quá trình biển tiến Flandrian.

Trong giai đoạn này có những đặc trưng sau:

- Vào đầu giai đoạn này, đê cát kéo dài từ Hải Lăng (Quảng Trị) đến cửa Tư Hiền được hoàn thiện, phía trong đê cát này là một đầm phá cổ kéo dài và rộng hơn nhiều so với phá Tam Giang hiện nay. Đê cát này được thành tạo từ 2 thế hệ cát biển:

thế hệ cát biển thứ nhất bao gồm cát thạch anh màu trắng, trắng muối được thành tạo trong kỳ biển tiến Flandrian và thế hệ cát biển thứ hai gồm cát màu vàng nhạt nằm phủ trên cát thế hệ thứ nhất (ảnh 7).

Ảnh 7. Cát vàng nhạt nguồn gốc biển, biển - gió tuổi Q22-3 (2) phủ trên cát trắng tuổi Q21-2 (1) ở dải đê cát ven biển Điền Hải, huyện Quảng Điền

Với sự tồn tại của Tháp Chăm Pa Phú Diên (huyện Phú Vang) nằm ở độ sâu 6- 7m so với bề mặt dải đê cát ven biển, có niên đại khoảng thế kỷ thứ VIII sau Công nguyên; có thể kết luận là cách đây trên 1000 năm, dải đê cát ven biển này đã nổi lên trên mực nước biển, và là nơi cư trú của người Chăm Pa cổ.

- Trong Holocen muộn, đã xảy ra sụt lún hình thành đầm Cầu Hai [3]; đầm phá cổ bị thu hẹp dần. Có sự liên thông giữa các hợp phần (phá Tam Giang, cửa sông

2

1

(15)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

Hương, đầm Thủy Tú và đầm Cầu Hai) để hình thành hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai như ngày nay.

- Hoạt động của sông đã phá huỷ một phần các dải cát hình thành trong giai đoạn trước. Điển hình là dải cát kéo dài từ Hải Lăng (Quảng Trị) đến Phong Điền đã bị hệ thống sông Ô Lâu, Ô Giang phá huỷ ở phần gần trung tâm.

- Hoạt động của gió đã làm biến đổi bề mặt đê cát, tạo thành những dạng địa hình đặc trưng như các cồn cát, gờ cát.

4.2. Về vai trò của chuyển động tân kiến tạo với trầm tích

Vai trò của chuyển động tân kiến tạo đối với sự thành tạo trầm tích được thể hiện khá rõ ràng khi phân tích cột địa tầng trầm tích Holocen. Trong cùng bối cảnh thay đổi của mực nước biển, ở các đới cấu trúc tân kiến tạo khác nhau, trầm tích Holocen có đặc điểm khác nhau:

- Ở đới phá Tam Giang và đới đầm Thủy Tú (là các đới tương đối ổn định về hoạt động nâng hạ) trầm tích Holocen có phần dưới bao gồm bột sét, bột cát thuộc tướng cửa sông và sét bột chứa vật chất hữu cơ tướng đầm lầy ven biển; phần trên là cát thạch anh màu trắng, xám trắng tướng đê cát, bãi triều.

- Ở đới hạ lưu Sông Hương (đới sụt chìm tân kiến tạo) có môi trường vũng, vịnh biển tồn tại trong suốt kỳ biển tiến Flandrian, sau đó là các trầm tích delta được thành tạo trong kỳ biển lùi sau biển tiến.

- Ở đới đầm Cầu Hai (sụt lún cục bộ trong Holocen muộn): chỉ có mặt các lớp mỏng bột sét, bột cát, cát tuổi Holocen.

5. KẾT LUẬN

1. Các trầm tích Holocen có diện phân bố rộng rãi ở đồng bằng TTH. Chúng có nhiều kiểu nguồn gốc là sông, sông – biển, biển – sông – đầm lầy, biển và biển – gió tạo, nên các dạng địa hình khác nhau trên bề mặt đồng bằng.

2. Theo mặt cắt đứng từ dưới lên trên, các trầm tích chuyển tướng từ trầm tích lòng sông – cửa sông/đầm lầy ven biển – vũng, vịnh biển – delta/đê cát, bãi triều – bãi bồi và lòng đầm phá thể hiện một chu kỳ biển tiến – biển lùi đã xảy ra trong Holocen.

3. Lịch sử phát triển địa chất đồng bằng TTH trong Holocen bị chi phối bởi yếu tố mang tính quyết định là mối quan hệ tương hỗ giữa sự thay đổi mực nước biển và hoạt động tân kiến tạo địa phương. Trong cùng bối cảnh thay đổi của mực nước biển, ở các đới cấu trúc tân kiến tạo khác nhau, trầm tích Holocen có đặc điểm thành phần vật chất, cổ sinh, tướng trầm tích và bề dày khác nhau.

(16)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế LỜI CẢM ƠN

Bài báo là một phần sản phẩm của đề tài “Nghiên cứu di sản địa chất làm cơ sở khoa học để thành lập công viên địa chất toàn cầu ở khu vực Tam Giang - Bạch Mã”.

Mã số ĐT ĐL.CN-05/18. Nhóm tác giả bài báo xin được chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm đề tài đã tạo điều kiện thuận lợi cho tập thể tác giả hoàn thành bài báo này. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng trân trọng cảm ơn các ý kiến đóng góp chuyên môn của PGS.

TS. Trần Ngọc Nam để bài báo được hoàn thiện hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nguyễn Biểu và nnk, 2001. Báo cáo tổng kết đề án: Điều tra địa chất và khoáng sản rắn biển nông ven bờ độ sâu 0 - 30m nước Việt Nam tỷ lệ 1: 500. 000. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.

[2]. Nguyễn Hữu Cử, 1996. Đặc điểm địa chất hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai (Thừa Thiên – Huế) và phức hệ Trùng lỗ chứa trong chúng. Luận án PTS Địa chất. Lưu trữ Thư viện Quốc gia, Hà Nội.

[3]. Nguyễn Đình Hòe, Trần Đình Lân, Nguyễn Hữu Cử, 1994. Một số đặc điểm địa động lực nội sinh hiện đại và tác động của chúng đối với hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Báo cáo Hội thảo khoa học về đầm phá Thừa Thiên Huế. Hải Phòng.

[4]. Phạm Đức Mạnh, 2016. Hợp thể Sa Huỳnh và đôi điều cảm ngộ. Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, Tập 19, Số X4-2016. Hà Nội.

[5]. Phạm Huy Thông và nnk, 1997. Báo cáo kết quả lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Huế. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.

[6]. Vũ Mạnh Điển và nnk, 1994. Báo cáo kết quả lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Nam Đông. Lưu trữ Địa chất, Hà Nội.

[7]. Vũ Quang Lân, 2002. Tiến hoá của trầm tích Đệ tứ vùng đồng bằng Quảng Trị - Thừa Thiên Huế. Tạp chí Địa chất số 270. Hà Nội.

(17)

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 17, Số 2 (2020)

CHARACTERISTICS OF HOLOCEN SEDIMENTS IN THUA THIEN HUECOASTAL DELTA

Vu Quang Lan1, Tran Quang Phuong1, Hoang Ngo Tu Do2*

1 North Vietnam Geological Mapping Division

2 University of Sciences, Hue University

* Email: hoangngotudo@hueuni.edu.vn ABSTRACT

Thua Thien Hue coastal delta with the Tam Giang - Cau Hai lagoon system which is the largest one in Southeast Asia located on a Holocene sedimentary set with the following characteristics: Holocene sediments are widely distributed with many types are river, river - sea, sea - river - swamp, sea, sea - wind and creates different topographic on the plain surface. According to the vertical section from bottom to top, the sediments transformed from river bed - estuarine/coastal marsh - lagoon, gulf - delta/sand dike, tidal flats - lagoons show one transgression–regression cycle has occurred in the Holocene. The history of the geological development of the Thua Thien Hue coastal delta in Holocene that is dominated by the Flandrian transgression and the local tectonic activity makes it possible for Holocene sediments to characterize material composition, paleontology, sedimentary and different thickness.

Keywords: Holocene sediments, the history of the geological, Thua Thien Hue coastal delta.

(18)

Đặc điểm các trầm tích Holocen ở đồng bằng Thừa Thiên Huế

Vũ Quang Lân sinh ngày 10/08/1965 tại Thái Bình. Ông tốt nghiệp đại học năm 1989 ngành Địa chất tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành Thạch học - Khoáng học - Trầm tích học năm 2003 tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học quốc gia Hà Nội. Hiện nay, ông công tác tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

Lĩnh vực nghiên cứu: Địa tầng, Trầm tích Đệ tứ, Địa mạo, Vỏ phong hóa và Di sản địa chất.

Trần Quang Phương sinh ngày 05/11/1981 tại Quảng Ninh. Ông tốt nghiệp đại học năm 2006 ngành Địa chất, tốt nghiệp Thạc sĩ năm 2010 chuyên ngành Địa chất khoáng sản và thăm dò. Hiện nay, ông công tác tại Liên đoàn Bản đồ Địa chất miền Bắc, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

Lĩnh vực nghiên cứu: Địa hóa học và Di sản Địa chất.

Hoàng Ngô Tự Do sinh ngày 21/7/1976 tại Thừa Thiên Huế. Ông tốt nghiệp đại học năm 1999 ngành Địa chất học, tốt nghiệp Thạc sĩ năm 2004 chuyên ngành Địa chất học, tốt nghiệp tiến sĩ Địa chất học năm 2017 tại Trường đại học Mỏ - Địa chất. Hiện nay, ông công tác tại Khoa Địa lý – Địa chất, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.

Lĩnh vực nghiên cứu: Địa mạo, Trầm tích Đệ tứ, Địa chất du lịch.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

- Một số quốc gia tuy thuộc loại nước nông nghiệp – công nghiệp nhưng lại có các ngành công nghiệp rất hiện đại như các ngành điện tử, nguyên tử, hàng không vũ trụ…

Nhật Bản lại trở thành nước phát triển sớm nhất của châu Á vì Nhật Bản đã sớm thực hiện cuộc cải cách Minh Trị vào nửa cuối thế kỉ XIX mở rộng quan hệ với các

Giai đoạn Tân kiến tạo (Tạo nên diện mạo lãnh thổ và vẫn còn đang tiếp diễn) - Là giai đoạn tương đối ngắn, điễn ra trong đại Tân sinh và là một giai đoạn rất quan

Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước và lãnh thổ châu Á hiện nay MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á NĂM 2017... - Sau chiến tranh

- Giai đoạn này diễn ra trong hai giai đoạn Cổ sinh và Trung Sinh, kéo dài 500 năm và cách ngày nay ít nhất 65 triệu năm... Giai đoạn Cổ kiến tạo là thời kì cực

This exploitation breaks the balance of cross-shore sedim ents tra n sp o rt and makes the coast slope unstable.. LyHoa mouth is continuously evolved a n d

Hồ Chí Minh là 2 đầu mối giao thông vận tải, viễn thông lớn nhất cả nước, tập trung nhiều trường đại học, bệnh viện hàng đầu; các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn, quảng

Đặc điểm trầm tích và quy luật phân bố Đặc điểm thành phần vật chất, tuổi và môi trường trầm tích của cát khu vực ven biển tỉnh Bình Thuận được nghiên cứu một cách liên tục