• Không có kết quả nào được tìm thấy

góp phần xây dựng hệ thống An sinh xã hội tổng thể ở nước ta hiện nay

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "góp phần xây dựng hệ thống An sinh xã hội tổng thể ở nước ta hiện nay"

Copied!
11
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

góp phần xây dựng hệ thống An sinh xã hội tổng thể ở nước ta hiện nay

Trịnh Duy Luân

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, cùng với việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhu cầu nghiên cứu và nhận diện một mô hình phát triển xã hội tổng thể của Việt Nam trong điều kiện hiện nay cũng trở nên cấp thiết. Trong các lĩnh vực xã hội rộng lớn, đa dạng và phức tạp, một mô hình như vậy cần phản ánh được những mối quan hệ xã hội chủ yếu, rường cột nhất, để cùng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể dẫn đường cho những quyết sách nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Hệ thống an sinh xã hội có thể là một bộ phận, một công cụ quan trọng trong tiến trình đạt tới mục tiêu của mô hình phát triển xã hội như vậy.

Trong lịch sử Việt Nam, từ khi nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập (1945), những chính sách xã hội, an sinh và phúc lợi xã hội đã được Đảng và Nhà nước ta triển khai thực hiện và phát triển qua các thời kỳ. Chúng đã phát huy tác dụng hỗ trợ, đóng vai trò những đệm đỡ trước các cú sốc kinh tế và xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển chiến lược và các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, khó có thể gọi đó là những mô hình, hệ thống an sinh xã hội với nghĩa đầy đủ của từ này. Mới chỉ có các yếu tố, các hợp phần riêng lẻ, chưa hội đủ các điều kiện để trở thành một hệ thống quốc gia an sinh xã hội thống nhất.

Thực tế tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam từ cuối những năm 1990 và quá trình hội nhập ngày càng tăng thường đi kèm với nhiều rủi ro, đặc biệt

đối với nhóm người nghèo và các nhóm dễ bị tổn thương. Mặt khác, trong thời kỳ Đổi mới, Việt Nam cũng đang trải qua nhiều biến đổi xã hội đáng kể, trong đó có những thay đổi trong cơ cấu độ tuổi và cấu trúc gia đình, trong các loại hình việc làm và các quan hệ lao động. Đô thị hóa và bất bình đẳng giữa các vùng cũng đang gia tăng. Tất cả những điều này đòi hỏi phải có các chính sách xã hội nhằm quản lý hiệu quả hơn các rủi ro kinh tế - xã hội mới phát sinh.

(2)

Đã đến lúc cần từng bước xây dựng một mô hình hệ thống an sinh xã hội tổng thể. Và với những biến đổi nhanh chóng trong quá trình phát triển và dưới tác động của toàn cầu hóa như hiện nay, hệ thống an sinh xã hội quốc gia của Việt Nam cần phải được thiết kế với kích cỡ của một “chiếc áo phòng lớn”, tức là có tính đến mọi khả năng phát triển, mở rộng theo những lộ trình có thể có, cùng với những kinh nghiệm quốc tế phong phú.

Như vậy, cần có đủ những căn cứ lý thuyết cũng như những điều kiện thực tế

đang biến đổi để thiết kế nên mô hình an sinh xã hội cụ thể của Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay và các chặng trên lộ trình tiếp theo.

Từ góc độ của các nghiên cứu xã hội học, cần phải chỉ ra những vấn đề đang xuất hiện trong/giữa các lĩnh vực, các hợp phần hoặc yếu tố của hệ thống này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện của chúng. Thông qua nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan, xã hội học có thể hỗ trợ cho các nhà hoạch định chính sách thiết kế và vận hành một hệ thống an sinh xã hội quốc gia tổng thể, đáp ứng những mục tiêu và chức năng nhiệm vụ trong khuôn khổ của mô hình phát triển xã

hội Việt Nam hiện nay và trong tương lai.

2. Nhận thức qua những khái niệm và thuật ngữ

Đã có khá nhiều khái niệm và thuật ngữ được sử dụng trong lĩnh vực an sinh xã hội. Những khái niệm và thuật ngữ này có thể đã phổ biến, quen dùng, cũng có thể ít gặp, ít dùng và đã từng gây không ít nhầm lẫn và tranh cãi. Cũng đã có những cố gắng tập hợp, hiệu chỉnh và thống nhất cách hiểu và cách dùng các khái niệm và thuật ngữ này. Có lẽ nguyên do là bởi chúng ta quá câu nệ và lệ thuộc vào các thuật ngữ được vay mượn từ nước ngoài (chủ yếu từ tiếng Anh, hoặc tiếng Trung Quốc).

Trong khi thực tiễn Việt Nam lại không khớp hoặc không hoàn toàn khớp với nội hàm của các thuật ngữ đó (Nguyễn Mạnh Cường, 2005). Rõ ràng là rất khó khăn khi phải dụng những thuật ngữ có sẵn, hoặc vay mượn để gán cho một thể chế hay những yếu tố/hợp phần của nó. Trong khi cách tốt vẫn nhất là phải xuất phát từ bản chất của thể chế hay các hợp phần của nó để đặt tên cho chúng.

Định nghĩa được sử dụng phổ biến hiện nay trong các văn bản về an sinh xã

hội là định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): "An sinh xã hội là một hình thức bảo trợ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua nhiều biện pháp

được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã

hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hay tử vong; chăm sóc y tế; và trợ cấp cho các gia đình có con nhỏ". (ILO, 1984).

Theo định nghĩa này thì an sinh xã hội gắn nhiều hơn với mức độ an toàn, với việc quản lý các rủi ro để bảo đảm cho các cá nhân, các nhóm người không bị rơi vào hoàn cảnh sống kém hơn mức trung bình của xã hội. Có một khái niệm khác, đôi khi vẫn được dùng lẫn vào (hoặc gần nghĩa với) khái niệm an sinh xã hội - đó là khái niệm "phúc lợi xã hội". Thực ra thì khái niệm phúc lợi xã hội gắn nhiều hơn với nghĩa

(3)

là sự đáp ứng các nhu cầu (đa dạng, phong phú, có thể bao gồm cả các nhu cầu về an sinh) của các tầng lớp dân cư trong một xã hội, hoặc dễ liên tưởng đến khái niệm

"nhà nước phúc lợi" (welfare state) ở Bắc Âu. Theo ý nghĩa cơ bản này, khái niệm an sinh xã hội đang được bàn đến ở đây là hẹp hơn khái niệm phúc lợi xã hội.

Còn hàng loạt các thuật ngữ khác như bảo hiểm, cứu trợ, bảo trợ, bảo đảm, trợ giúp, ưu đãi xã hội,… thường được xem như là các yếu tố bộ phận, hợp phần của an sinh xã hội, hiện đang được sử dụng và cần được xem xét cụ thể trong quá trình xây dựng một hệ thống an sinh xã hội quốc gia, tổng thể, thống nhất.

Từ thực trạng trên, khi xây dựng hệ thống an sinh xã hội mới, có lẽ không nên lệ thuộc quá nhiều vào các thuật ngữ nước ngoài (mà nhiều khi cũng mang những nội hàm khác nhau tuỳ theo quốc gia, thời gian, thậm chí của các tác giả khác nhau) mà chỉ cần có một số ít hơn các thuật ngữ, được Việt Nam hóa, để phản ánh và phân biệt trong hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam.

Kinh nghiệm xây dựng và cải cách hệ thống an sinh xã hội của Trung Quốc cho thấy: Giới nghiên cứu và hoạch định chính sách Trung Quốc đã không quá chú trọng những định nghĩa mang tính lý luận, trừu tượng về các khái niệm cơ bản của Hệ thống an sinh xã hội đang trong quá trình cải cách. Họ thường đưa ra những nội dung chủ yếu (tương đối chi tiết, cụ thể hơn) mà lĩnh vực an sinh xã hội cần phải thực hiện. Trên cơ sở đó, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại và cần tiếp tục giải quyết.

Các khái niệm sẽ được định nghĩa và được thao tác hóa, cụ thể hóa từng bước, trên cơ

sở tổng kết thực tiễn. Đồng thời, có những khái niệm chưa được kiểm nghiệm, còn tranh luận, chưa được thống nhất, chưa được định nghĩa rõ ràng thì được để ngỏ và thử nghiệm thêm.

Một hệ thống an sinh xã hội toàn diện, hoàn chỉnh cũng chỉ là một mẫu hình lý tưởng. Nó luôn mang tính "mở", trong quá trình xây dựng và hoàn thiện có một số hợp phần/tiểu hệ thống đã cơ bản hình thành, còn một số khác vẫn chưa hình thành và chưa đủ điều kiện để thực hiện. Điều này càng đúng với Việt Nam, khi chúng ta mới bắt đầu chuẩn bị xây dựng một hệ thống an sinh xã hội toàn diện, đầy đủ, thống nhất. Cần xác định đây là một quá trình từng bước tìm tòi, thử nghiệm và tổng kết trên cả thực tiễn và lý luận. Không nên quá tập trung nghiên cứu và tranh luận những vấn đề thuần túy “khái niệm” học thuật mà nên từng bước tiến hành tổng kết thực tiễn và rút ra những vấn đề “lý thuyết” khi đã chín muồi. Tính thực tiễn, hợp lý và tính khả thi cần phải được chú trọng. (Xem thêm: Patricia Justino, 2005).

3. Bản chất và chức năng của hệ thống an sinh xã hội

Hệ thống an sinh xã hội như mô tả ở trên có thể được nhìn nhận như một thiết chế xã hội cơ bản quan trọng, với các mục tiêu và vai trò của nó, bên cạnh các thiết chế khác như kinh tế (thị trường) hay chính trị (nhà nước). Việc xây dựng và vận hành thiết chế xã hội này là khác nhau trong những điều kiện kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội khác nhau.

Sự vận hành của hệ thống an sinh xã hội như một thiết chế nhằm thực hiện ít

(4)

nhất 2 chức năng chính: phân phối lại thu nhập và quản lý các rủi ro đối với các thành viên của xã hội. Từ cách tiếp cận vĩ mô, hệ thống an sinh xã hội thực hiện quá

trình phân phối lại bằng hai cách: chuyển một phần tiền mặt từ các nhóm thu nhập cao sang các nhóm thu nhập thông qua nguồn thuế luỹ tiến; và thông qua hệ thống trả tiền (bảo hiểm, trợ cấp) khi đến lượt giữa các thế hệ, từ người đang làm việc sang cho người cao tuổi vào thời điểm hiện tại.

Việc thực hiện quá trình phân phối lại này là con đường để giảm thiểu bất bình đẳng xã hội (mặc dù trên thực tế, không phải hệ thống an sinh xã hội nào cũng thực hiện được hiệu quả mục tiêu này).

Chức năng thứ hai là quản lý các rủi ro cho mọi thành viên của xã hội, đặc biệt là hỗ trợ cho các nhóm dễ bị tổn thương, nhóm thiệt thòi. Những rủi ro và tổn thất về kinh tế như bệnh tật, mất mùa, thất nghiệp, tai nạn, thiên tai,…xảy ra khá

phổ biến ở tất cả các bộ phận trong xã hội nên các chi phí về kinh tế và chính trị có thể rất lớn.

Để thực hiện chức năng này, hệ thống an sinh xã hội phải huy động sự tham gia của rất nhiều chủ thể, tác nhân bao gồm: nhà nước, doanh nghiệp, xã hội dân sự, gia đình và cộng đồng, cá nhân và thị trường. Nhiều nguyên tắc đã được thiết lập trong mối quan hệ giữa các chủ thể/tác nhân này của hệ thống an sinh xã hội. Mặt khác, trong cơ cấu của hệ thống an sinh xã hội, các tiểu hệ thống, các hợp phần đều có mục tiêu, nội dung, đối tượng, phạm vi bao phủ, chức năng, nguyên tắc hoạt động riêng, đồng thời lại có mối quan hệ tương hỗ với nhau trong toàn bộ hệ thống.

4. Cấu trúc, các hợp phần của hệ thống an sinh xã hội

Một cách rộng nhất, hệ thống an sinh xã hội có thể có cấu trúc nhiều hợp phần, đa dạng và mở, và có thể được phân loại theo một số tiêu chí chính như: Chính thức và không chính thức; Nhà nước/xã hội/công cộng và phi nhà nước; cơ bản (định hướng) và cao cấp (đầy đủ); cá nhân và các tổ chức (Doanh nghiệp, Nghiệp đoàn),…

Rõ ràng là để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội quốc gia tổng thế, cần xử lý tương quan giữa các hợp phần này trên nền tảng thực tiễn, trong các tầm nhìn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo một lộ trình hợp lý.

Trong các hệ thống an sinh xã hội (đặc biệt ở các xã hội phát triển), trong thời gian đầu, người ta thường tập trung vào các phân hệ chính thức, thậm chí thu hẹp trong phạm vi của bảo hiểm xã hội hoặc một vài cơ cấu thể chế thực tiễn.

Tuy nhiên đối với các quốc gia nghèo, chậm phát triển và ở phương Đông như

Việt Nam, không thể bỏ qua vai trò của các thể chế phi chính thức, bao gồm gia đình, dòng họ và cộng đồng. Gia đình và cộng đồng đã từng là xuất phát điểm ra đời của hệ thống an sinh xã hội “sơ cấp” phi chính thức, mang tính truyền thống. Trong điều kiện các thể chế an sinh xã hội chính thức chưa bao phủ được các nhóm xã hội rộng lớn ở nông thôn, các thiết chế phi chính thức này đóng vai trò khá quan trọng (tuy thời gian qua có suy giảm nhiều). Đối với Việt Nam, điều này còn gắn liền với truyền thống nhân ái, tương trợ lẫn nhau của dân tộc ta được thể hiện qua các cách nói dân

(5)

gian như: “lá lành đùm lá rách”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”…

Thuộc khu vực phi nhà nươc (chính thức, không chính thức) còn có thể kể đến sự tham gia của các thiết chế của xã hội dân sự như các tổ chức xã hội ở cơ sở, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, các tôn giáo (nhà thờ, chùa,..).

Các doanh nghiệp cũng là một chủ thể quan trọng của hệ thống an sinh xã

hội, theo quy định của Luật Lao động và các bộ luật khác. Chúng có trách nhiệm pháp lý đối với người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp, và thuộc hợp phần chính thức của hệ thống.

Các cơ quan truyền thông đại chúng có thể đóng vai trò cầu nối, cung cấp thông tin về hệ thống an sinh xã hội, thu hút sự quan tâm, định hướng dư luận của công chúng trong các hoạt động hỗ trợ, quyên góp, huy động sự đóng góp của các cá

nhân, doanh nghiệp, tổ chức và cộng đồng dân cư trong các hoạt động cứu trợ đột xuất, cho các đối tượng đặc biệt.

Thị trường Bảo hiểm thương mại mới xuất hiện sau này cũng cần được xem như một hợp phần trong hệ thống an sinh xã hội theo nghĩa rộng nhất (vì ở đây sự can thiệp của nhà nước khá hạn chế, thông qua cơ chế thị trường). Bảo hiểm con người với các dịch vụ đa dạng, được cung cấp bới các công ty bảo hiểm trong nước và quốc tế, với hàng triệu khách hàng rõ ràng là đang đóng góp một phần cho mục tiêu quản lý rủi ro cho một số nhóm xã hội. Thị trường này trước hết đang nhằm vào các khách hàng - sử dụng dịch vụ thuộc nhóm khá giả, với nguyên tắc hoàn toàn hưởng theo sự đóng góp.

5. Mô hình lý tưởng và lộ trình xây dựng hệ thống an sinh xã hội Nói đến một mô hình lý tưởng của hệ thống an sinh xã hội từ góc độ thực tế, có lẽ cần nhìn từ kinh nghiệm lịch sử của các quốc gia phát triển ở phương Tây, nhiều thế kỷ qua cũng là thời gian tìm tòi, thử nghiệm của các quốc gia này, để xác lập một hệ thống an sinh xã hội ngày một hoàn thiện với những biến thể khác nhau.

Trong thành phần cơ cấu của hệ thống an sinh xã hội như đã nêu ở trên, các chương trình bảo hiểm xã hội nổi lên như là những trụ cột chính phục vụ cho những nhu cầu quan trọng nhất của công dân trong cuộc đời họ. Đó là cơ cấu thể chế với 2 chương trình: trợ cấp dưỡng lão (hưu trí) và trợ cấp ốm đau (y tế) bằng tiền mặt. Hai chương trình này đáp ứng các đặc điểm cơ bản của hoàn cảnh mỗi con người: đó là tính tất yếu của tuổi già và nguy cơ bệnh tật (khác với loại hình bảo hiểm thất nghiệp và tai nạn nghề nghiệp, có nguy cơ xảy ra rất khác nhau tuỳ theo các điều kiện cụ thể). Ngoài ra, còn có các dịch vụ xã hội cơ bản, nhưng chúng thường không

được xem như là những bộ phận của hệ thống an sinh xã hội.

Chúng ta hãy tham khảo các mô hình điển hình lý tưởng của các thể chế bảo hiểm xã hội ở phương Tây, đã được các tác giả Walmer Korpi và Joakim Palme (Viện Nghiên cứu xã hội Thụy Điển) tổng kết trên cơ sở thực tiễn lịch sử phát triển theo trật tự thời gian của các nước phương Tây.

(6)

Nguồn: Walmer Korpi và Joakim Palme. 1998. Nghịch lý của việc tái phân phối và các chiến lược bình đẳng: Các thể chế phúc lợi xã hội, sự bất bình đẳng và nghèo đói ở các nước phương Tây. Bản dịch từ bài viết đăng trên American Sociological Review, Vol. 63, No.5 (Oct. 1998, 661-687).

Không đi vào những chi tiết phức tạp của các mô hình này, có thể hình dung ra những cố gắng của các quốc gia phương Tây trong việc xây dựng và hoàn thiện các mô hình bảo hiểm xã hội (an sinh xã hội) quốc gia nhằm mục đích bảo đảm lợi ích của tất cả các nhóm xã hội với các chính sách và thể chế tương ứng. Có những loại hình trợ cấp có định hướng ban đầu cho những nhóm người nghèo, khó khăn (tương tự như các chương trình mục tiêu của Việt Nam). Đồng thời, cũng có những mô hình cung cấp bảo hiểm xã hội cơ bản cho mọi người dân, mô hình của các nghiệp đoàn (như của các ngành) hay mô hình bảo đảm lợi ích cho cả các tầng lớp nghèo bằng trợ cấp cơ bản và cho cả các tầng lớp trung lưu, khả giả, tùy theo mức thu nhập hay

đóng góp.

Như vậy, một mô hình lý tưởng điển hình của hệ thống an sinh xã hội có thể hiểu đó là một hệ thống các mô hình/thể chế bao phủ được hầu hết các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội với các hình thức bảo hiểm xã hội khác nhau, đạt được tất cả các mục tiêu chủ yếu đã đặt ra cho hệ thống này.

(7)

Đáng chú ý và khá lý thú là kết quả nghiên cứu của nhóm học giả Thụy Điển nói trên rút ra từ thực tiễn của các xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển. Kết luận từ nghiên cứu của họ là những mô hình cơ chế bảo hiểm xã hội càng đầy đủ thì càng có hiệu quả hơn cho công cuộc giảm nghèo và giảm bất bình đẳng xã hội. (Walmer Korpi và Joakim Palme, 1998)

Tuy nhiên trong điều kiện của các nước nghèo và đang phát triển như Việt Nam, trong suốt lộ trình phát triển của mình, sẽ còn là quá xa để đạt tới mô hình cơ

chế bảo hiểm xã hội đầy đủ như vậy. Đó chỉ có thể là những thí dụ để tham khảo cho tương lai dài hạn.

Để chuẩn bị xây dựng một hệ thống an sinh xã hội toàn diện của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc cũng cung cấp cho chúng ta những bài học khá gần gũi.

Sau khi bắt đầu Cải cách, Trung Quốc đã mất khoảng 15 năm (1978-1992) tìm tòi để cải cách hệ thống an sinh xã hội. Hơn một thập niên tiếp theo, từ 1993 đến nay, hệ thống an sinh xã hội được xem như là một trong 5 hệ thống lớn trong mô

hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc. Cùng với việc cải cách các bộ phận đơn lẻ của an sinh xã hội, Trung Quốc đã sơ bộ hình thành khung bậc tổng thể của hệ thống an sinh xã hội thích ứng với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

Mặt khác một lộ trình thích hợp cũng cần được tính đến. Cũng kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, cần bắt đầu từ cứu trợ xã hội với tiêu chuẩn thấp nhất của an sinh xã

hội, dần dần xây dựng đầy đủ hơn các hạng mục của hệ thống bao phủ rộng rãi tới mọi người. Xu hướng chung là sẽ giảm vừa phải gánh nặng của chính phủ, phát huy vai trò bảo hiểm thương mại.

6. Thực trạng hệ thống an sinh xã hội Việt Nam

Cho đến nay, an sinh xã hội Việt Nam đang được quan niệm gồm các hợp phần như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chính thức và các chương trình trợ cấp xã

hội. Các chương trình mục tiêu quốc gia (bao gồm cả Chương trình 135) cũng chứa

đựng những bộ phận, những hoạt động có thể được xếp vào như là các hoạt động/hợp phần của hệ thống an sinh xã hội hiện nay. Tuy nhiên, bản thân hệ thống cũng như

sự tiếp cận tới hệ thống này còn khá nhiều hạn chế. Đây là một trong số các lý do tác

động tới mức độ bất bình đẳng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Đối tượng tham gia và hưởng lợi còn khá hạn hẹp. Mới chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân cư tiếp cận được và hưởng lợi từ hệ thống an sinh xã hội hiện nay. Trong năm 2004, ước tính chỉ có 15% số dân được hưởng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và trợ cấp xã hội. Trong khi đó còn có khoảng 40% dân số dễ bị tổn thương theo nghĩa đang nằm ở mức gần sát (trên hay dưới) ngưỡng nghèo.

Bên cạnh đó, bảo hiểm xã hội và các chương trình mục tiêu đã không hoàn toàn thành công trong việc tiếp cận đúng tới các nhóm ưu tiên là những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất. (Xem bảng dưới đây).

(8)

Tiếp cận lợi ích mục tiêu năm 2002

Phần trăm những người thụ hưởng là

Phần trăm những người nghèo là người thụ hưởng

Phân bố thụ hưởng theo ngũ vị phân

% các

hộ gia

đình có/là

Không nghèo

Nghèo Nghèo thành

phố

Trong những người nghèo

Trong những

người nghèo

thành phố

Nghèo nhất

Nghèo Trung bình

Giàu Giàu nhất

Giấy chứng nhận hộ nghèo

3,8 27,4 72,6 36,9 9,5 12,8 58,5 24,7 9,1 6,5 1,1

Thẻ Bảo hiểm y tế

4,0 28,6 71,4 42,0 9,9 15,5 57,8 20,8 13,6 4,6 1,3

Tiếp cận với tín dụng ưu đãi

2,2 25,1 74,9 37,9 5,8 7,1 60,2 20,4 13,7 4,4 1,3

Miễn giảm học phí

5,5 30,2 69,8 39,8 13,2 20,0 56,9 23,3 11,6 6,5 1,9

Sống trong các xã của Chương trình 135

14,8 44,8 55,2 30,1 28,2 41,0 43,5 22,6 15,1 13,6 5,3

Nguồn: DFID, Mekong Economics. Báo cáo về bất bình đẳng của Việt Nam: Đánh giá

và những lựa chọn chiính sách. 8/2005

Các chương trình hỗ trợ xã hội này cũng thường không có các công cụ tin cậy

để giám sát việc lựa chọn đối tượng thụ hưởng có phù hợp và có nhận được sự hỗ trợ hay không.

Từ đó, xét từ góc độ quản lý rủi ro và bảo vệ những nhóm dễ bị tổn thương, thì

hệ thống an sinh xã hội cần hướng tới 2 nội dung: mở rộng tầm bao phủ (có chú ý đến tính khả thi trong điều kiện các nguồn lực hạn chế) và tăng cường tính hiệu quả của việc tiếp cận các nhóm mục tiêu (xác định chính xác hơn các nhóm dễ bị tổn thương và ưu tiên hưởng lợi từ hệ thống, xây dựng chính sách thống nhất, phối hợp hiệu quả

giữa các bộ ngành).

Việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội toàn diện có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2010 và tới 2020.

Những điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam truyền thống, của thời kỳ sau chiến tranh và những chuyển đổi trong thời kỳ Đổi mới sẽ là những cơ sở thực tiễn xuất phát điểm cho việc xây dựng hệ thống an sinh xã hội mới.

Chẳng hạn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay và những năm sắp tới có thể mang đến nhiều rủi ro hơn, nhiều nhóm xã hội dễ bị tổn thương hơn và sẽ tác động tới lộ trình và nhịp độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh

(9)

xã hội quốc gia. Cấu trúc các hợp phần của hệ thống cũng sẽ tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác như: cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội, cơ cấu dân số- lao động đang biến

đổi, mô hình phát triển xã hội, các khuôn mẫu/giá trị, văn hóa truyền thống (nhất là trong khu vực nông thôn),.... Trong bối cảnh đó, lại cần phải kết hợp các tầm nhìn chiến lược, dài hạn, trung hạn và ngắn hạn thật cụ thể.

Nhiều nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong lĩnh vực này cho rằng, Việt Nam nên cố gắng phát triển và đầu tư vào hệ thống an sinh xã hội quốc gia thống nhất, trong đó sẽ xác định một cách có hệ thống những nhóm dân cư dễ bị tổn thương và xây dựng năng lực hoạt động để phối hợp và thực hiện các chính sách. Cần xác định sự ưu tiên tốt hơn cho những nhóm dễ bị tổn thương và tăng cường tính hiệu quả cho những nhóm mục tiêu đã được xác định. Tính khả thi và sự ưu tiên trong các thiết kế ngắn hạn và trung hạn là những điểm đáng lưu ý trong khi xây dựng hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam hiện nay.

7. Nghiên cứu xã hội học hỗ trợ nhận diện và xây dựng hệ thống trong giai đoạn hiện nay và tới 2010 - 2020

Căn cứ theo thực trạng của an sinh xã hội và khả năng của nguồn lực, nhìn từ phía các nhóm đối tượng tham gia và thụ hưởng trong hệ thống này, việc định hướng phát triển một hệ thống an sinh xã hội đầy đủ và hợp nhất của Việt Nam hiện nay có 2 mục tiêu cơ bản trước mắt. Đó là mở rộng diện bao phủ đối với một số loại hình bảo hiểm cơ bản (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) và xác định đúng đối tượng cho các loại hình trợ cấp xã hội.

Để hỗ trợ thiết thực cho việc hoạch định các khuôn khổ chính sách và lộ trình thực hiện các mục tiêu cụ thể này, rất cần phải nghiên cứu kỹ các nhóm dân cư sau:

- Nhóm đối tượng lẽ ra đã được tham gia vào hệ thống, nhưng hiện nay chưa thực hiện được.

- Nhóm cá nhân và các hộ gia đình hiện chưa tham gia vào các chương trình - Nhóm đối tượng đã tham gia nhưng sử dụng các dịch vụ không hiệu quả

Với mỗi nhóm đối tượng "tiềm năng" như vậy, từ cách tiếp cận xã hội học, hoàn toàn có thể xác định được những đặc điểm của mỗi nhóm và phát hiện ra các nhu cầu về an sinh xã hội, khả năng tham gia (chấp nhận, chi trả để hưởng lợi) và những khó khăn, thách thức đối với họ, trên cả các địa bàn nông thôn, đô thị, vùng miền khác nhau.

Vai trò của khu vực an sinh xã hội chính thức và sự biến đổi của vai trò đó trong giai đoạn hiện nay, nhất là với các nhóm đối tượng ở khu vực nông thôn cũng là một chủ đề nghiên cứu có ý nghĩa cả về học thuật lẫn thực tiễn.

Nhu cầu truyền thông cho lĩnh vực này và trong chừng mực nào đó, tác động xã

hội của hệ thống an sinh xã hội, của các hợp phần riêng lẻ của nó tới toàn xã hội và các nhóm xã hội khác nhau cũng có thể là chủ đề nghiên cứu dài hạn của xã hội học.

(10)

Một số gợi ý về các chủ đề nghiên cứu ứng dụng:

1. Những vấn đề an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) cho người lao

động ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhu cầu và các vấn đề đáp ứng. Vai trò của tổ chức Công đoàn trong vấn đề bảo đảm nhu cầu an sinh xã hội cho người lao

động tại các doanh nghiệp này. Bảo hiểm xã hội cho lao động tự do, người nhập cư ở

đô thị: nhu cầu, quy mô và xu hướng phát triển. Những định hướng để họ có thể tham gia vào hệ thống?

2. Bảo hiểm y tế: Hiệu quả sử dụng (tác dụng) của bảo hiểm y tế với các nhóm

đối tượng khác nhau (cán bộ công chức ở đô thị, các mức bảo hiểm theo đóng góp, dân nghèo với bảo hiểm y tế miễn phí,...). Khả năng mở rộng diện bao phủ (qua bảo hiểm y tế tự nguyện, trong nhóm dân cư khác ở đô thị và nông thôn,..). Những nhóm có tiềm năng nhất để mở rộng độ bao phủ trong những năm tới.

3. Người dân nông thôn, nông dân: Bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm y tế tự nguyện: nhận thức, nhu cầu, khả năng đóng góp và chi trả của họ. Có thể có các nghiên cứu thử nghiệm từ các địa bàn cận đô thị, hoặc nông thôn đồng bằng, với các nhóm thuần nông, phi nông hoặc hỗn hợp.

4. Gia đình, dòng họ và cộng đồng, xã hội dân sự trong hệ thống an sinh xã hội:

Vị trí, vai trò, đặc trưng, các nhóm đối tượng và hoàn cảnh. Xu hướng sút giảm vai trò của chúng và dự báo sự thay thế bằng các thể chế chính thức trong thập niên tới.

5. Truyền thông về an sinh xã hội hỗ trợ nhận thức và sự tham gia của các nhóm xã hội vào xây dựng hệ thống an sinh xã hội quốc gia.

Xây dựng một hệ thống an sinh xã hội quốc gia thống nhất, hoàn thiện và hiệu quả là một quá trình hoạch định chính sách lâu dài và thường xuyên. Xã hội học có thế đóng góp phần mình trên cơ sở thế mạnh về nghiên cứu các nhóm xã hội, các quan hệ xã hội có liên quan, cũng như đánh giá các tương tác/tác động của hệ thống an sinh xã hội tới các bộ phận còn lại của xã hội. Đồng thời, cần có sự phối hợp, kết nối giữa các kết quả nghiên cứu xã hội học với các nhà hoạch định chính sách, nhằm tăng cường những cơ sở lý luận và thực tiễn luận chứng cho hệ thống an sinh xã hội quốc gia hiện nay và trong tương lai.

Tài liệu tham khảo

1. Walmer Korpi và Joakim Palme. 1998. Nghịch lý của việc tái phân phối và các chiến lược bình đẳng: Các thể chế phúc lợi xã hội, sự bất bình đẳng và nghèo đói ở các nước phương Tây. Bản dịch từ bài viết đăng trên American Sociological Review, Vol. 63, No.5 (Oct.

1998, 661-687).

2. DFID, Mekong Economics Ltd. 2005. Báo cáo về bất bình đẳng của Việt Nam: Đánh giá

và những lựa chọn chính sách.

(11)

3. Nguyễn Hải Hữu, 2005. Quan niệm về hệ thống an sinh xã hội tổng thể ở Việt Nam. Báo cáo tại Hội thảo khoa học: Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, do UNDP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đồng tổ chức tại Hà Nội, 22/7/2005.

4. Patricia Justino. 2005. Ngoài xoá đói giảm nghèo: Khuôn khổ hệ thống bảo hiểm xã hội quốc gia hợp nhất ở Việt Nam. UNDP. Văn kiện đối thoại chính sách.

5. Jonathan Pincus. 2005. Hướng tới một khuôn khổ hợp nhất cho an sinh xã hội ở Việt Nam. Báo cáo tại Hội thảo khoa học: Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam, do UNDP, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam đồng tổ chức tại Hà Nội, ngày 22/7/2005.

6. Bùi Thế Cường. 2005. Một số cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới hệ thống an sinh xã hội Việt Nam hiện nay. Báo cáo chuyên đề “Những vấn đề xã hội bức thiết hiện nay” - đóng góp vào việc soạn thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ X.

7. Đỗ Thiên Kính. 2005. Hệ thống phúc lợi xã hội ở Nhật Bản và bài học cho Việt Nam (Báo cáo tổng thuật chuyên đề). Viện Xã hội học.

8. Dương Chí Thiện. 2005. Tìm hiểu hệ thống An sinh xã hội Trung Quốc và bài học cho Việt Nam. (Báo cáo tổng thuật chuyên đề). Viện Xã hội học.

9. Nguyễn Mạnh Cường. 2003. Một số ý kiến đề xuất về các khái niệm và định nghĩa trong lĩnh vực xã hội. Bài trình này tại Hội thảo về an sinh xã hội do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và GTZ tổ chức tại Hà Nội tháng 4 năm 2003.

10. Phạm Văn Bích. 2005. An sinh xã hội qua tổng quan một số tài liệu. Viện Xã hội học.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Cã thÓ nãi, mét trong nh÷ng lÜnh vùc ®ang ®­îc quan t©m vµ bµn luËn nhiÒu hiÖn nay lµ lÜnh vùc truyÒn th«ng d©n sè... Đọc sách: truyền thông dân số với

Môc ®Ých chÝnh cña ®Ò tµi nh»m hç trî n¨ng lùc viÕt bµi cña c¸c nhµ nghiªn cøu trÎ cña ViÖn X· héi häc, mét trong nh÷ng kü n¨ng quan träng trong ho¹t ®éng

Thứ ba, luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, về phòng chống bạo lực gia đình mặc dù đã được ban hành khá đầy đủ, nhưng việc thực hiện trong thực

Bài viết sử dụng phương pháp định lượng hóa các hồ sơ ly hôn hàng năm của tòa án nhân dân các quận, huyện thuộc Tòa án Nhân dân thành phố Cần Thơ từ 2009-2017;

T¹p chÝ X· héi häc còng ®· lµ diÔn ®µn quen thuéc cña c¸c c¸n bé nghiªn cøu cña ViÖn, th­êng xuyªn ®¨ng c¸c bµi viÕt nghiªn cøu lý luËn vµ øng dông trong nh÷ng

VËy cho nªn, nhiÒu n-íc cã b¶o tµng vò khÝ ®Ó nãi lªn sù ph¸t triÓn lÞch sö cña vò khÝ g¾n liÒn víi sù ph¸t triÓn cña khoa häc vµ c«ng nghÖ, vµ sù ph¸t triÓn kinh tÕ

VÒ tæng thÓ kÕt cÊu c«ng tr×nh lµ mét khèi thèng nhÊt, gåm mét ®¬n nguyªn c¸c phÇn cña ng«i nhµ cã chiÒu cao b»ng nhau do ®ã t¶i träng truyÒn xuèng ch©n cét vµ mãng

H·y nªu nh÷ng vÝ dô vÒ biÓu hiÖn cña d©n chñ trong lÜnh vùc chÝnh trÞ mµ em biÕt.. D©n chñ trong lÜnh vùc v¨n ho¸ lμ thùc hiÖn nh÷ng quyÒn lμm chñ cña c«ng d©n