• Không có kết quả nào được tìm thấy

Sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đến phân tầng xã hội a

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đến phân tầng xã hội a"

Copied!
13
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÂN TẦNG XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH TẤN

1. Sự tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đến phân tầng xã hội

a. Kinh tế thị trường tác động đến phân tầng xã hội (PTXH)

Hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ từ một nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường đang dần hình thành với đầy đủ bản chất và đặc trưng của nó, được điều tiết bởi những quy luật khách quan như quy luật cung - cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ... Các quy luật này không chỉ tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến mọi vùng thành thị, nông thôn, mọi lĩnh vực trong đời sống và hoạt động của con người.

* Kinh tế thị trường với mục tiêu tối thượng của nó là hiệu quả kinh tế đã tác động trực tiếp đến PTXH, phân hoá giàu nghèo

Trong kinh tế thị trường, những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, người sản xuất... càng hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích cho bản thân, cho cộng đồng càng nhiều thì càng có điều kiện thuận lợi để phát triển, càng được xã hội tôn trọng, đánh giá cao, được tôn vinh. Những cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, người sản xuất hoạt động không có hiệu quả, lãng phí nhân lực, của cải, tiền bạc của nhân dân sẽ bị phá sản, bị xã hội coi thường, lên án.

* Kinh tế thị trường mà đặc trưng nổi bật là cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn tới PTXH, phân hoá xã hội

Trong kinh tế thị trường, sự tồn tại hay phát triển của mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội là do chính bản thân họ quyết định. Trong quá trình cạnh tranh đó, cạnh tranh bằng trí tuệ là sự cạnh tranh quyết liệt nhất và tạo ra sự phát triển bền vững nhất. Ai có trí tuệ sẽ có cơ hội tồn tại và phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, có cơ hội tìm kiếm công ăn, việc làm, thu nhập, nâng cao mức sống tốt hơn. Ai không có tri thức, trí tuệ sẽ khó có công ăn việc làm ổn định và thu nhập cao. Người có tri thức, kinh nghiệm, có tay nghề cao sẽ loại người có tay nghề thấp ra khỏi cuộc chơi. Cơ chế thị trường tạo ra cơ hội bình đẳng cho mọi người trong cuộc cạnh tranh. Nhưng cơ hội đó chỉ có thể được phát huy một khi có những người có năng lực vận dụng nó - những người có tri thức, kinh nghiệm, vốn xã hội và năng lực thực tế. Đó là một

(2)

cuộc cạnh tranh quyết liệt. Những ai không có năng lực vận dụng cơ hội đó sẽ bị rơi vào những kẻ yếu thế. Trong nền kinh tế thị trường, ai cạnh tranh giành thắng lợi sẽ tồn tại và phát triển. Ngược lại họ sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi, sẽ thất bại. Cạnh tranh là một tác nhân dẫn đến phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo.

* Kinh tế thị trường dẫn tới phân hoá xã hội, phân hoá mức sống, phân hoá giàu nghèo

Do yêu cầu của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp, người sản xuất luôn phải mở rộng sản xuất, trang trại, các tập đoàn, phải tích tụ sản xuất, dần dần hình thành các liên doanh, liên kết, các chủ kinh tế và để tồn tại, phát triển, các đơn vị sản xuất phải cạnh tranh lẫn nhau. Xã hội có sự điều chỉnh dân cư, cơ cấu xã hội. Những nhóm xã hội (doanh nghiệp) người sản xuất có lợi thế về kinh tế, về tiềm năng sẽ tồn tại và phát triển và những nhóm xã hội yếu thế sẽ bị chèn ép, bị phá sản. Điều đó dẫn tới việc phân hoá giai cấp, phân hoá các cố kết xã hội, phân hoá mức sống và lao động.v.v. Đó cũng là quá trình hình thành sự phân hoá mức sống, tiếp đến là sự phân tầng xã hội, phân hoá xã hội.

* Kinh tế thị trường với việc mua bán, trao đổi sức lao động, hàng hoá, tác động mạnh vào các quan hệ xã hội dẫn đến PTXH

Trong kinh tế thị trường, ai có nhiều tiền của, giàu sang, phú quý thì có cơ hội phát triển hơn, thoả mãn được nhu cầu cuộc sống của mình. Người có nhiều tiền (tất nhiên ở đây chỉ nói đồng tiền trong sạch kiếm được do sức lao động của mình) thì sẽ được xã hội đánh giá cao, thừa nhận. Ngược lại, ai không có nhiều tiền, cuộc sống nghèo khổ thì khó có cơ hội phát triển, khó có cơ hội vươn lên ngang bằng về địa vị xã hội với người giàu. Người giàu có cơ hội càng giàu hơn, người nghèo có nguy cơ ngày càng nghèo đi và như vậy, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng ra. Đó là bản chất, là sự thật nghiệt ngã của cơ chế thị trường.

b. Hội nhập kinh tế quốc tế và sự tác động của nó đến phân tầng xã hội

* Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trước hết diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, đấu tranh kinh tế tất yếu dẫn đến PTXH, phân hoá xã hội

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trước hết tác động đến lĩnh vực kinh tế (bao gồm sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, xuất khẩu lao động hợp tác khoa học - kinh tế - công nghệ, hợp tác sản xuất, mời gọi đầu tư...). Quá trình này ngày càng phát triển, đặc biệt là kể từ khi nước ta gia nhập WTO đến nay. Quá trình này tác động, thu hút ngày càng mạnh đến mọi người, mọi nhà, mọi lĩnh vực sản xuất, mọi thành phần kinh tế. Và đương nhiên những cá nhân tổ chức xã hội nào năng động có nhiều lợi thế sẽ có cơ hội vươn lên làm giàu và chiếm lĩnh những vị trí cao trong sản xuất kinh doanh cũng như trong đời sống xã hội chính trị... Những cá nhân, tổ chức nào kém năng động, thụ động, ỷ lại hoặc trình độ tay nghề, năng lực kinh

(3)

doanh hạn chế đương nhiên sẽ rơi vào tầng lớp xã hội yếu thế (nghèo, vị trí thấp...)

* Hội nhập kinh tế dẫn đến đua tranh xã hội làm thay đổi, phân hoá sâu sắc hệ thống giá trị dẫn đến PTXH, phân hoá xã hội

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội giao lưu, giao tiếp của các nền văn hoá và điều đó tất yếu dẫn đến sự thay đổi các giá trị, chuẩn mực xã hội truyền thống. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ làm thay đổi lối sống, phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu của các nhóm dân cư, làm thúc đẩy sự phân hoá xã hội.

Những nhóm dân cư có điều kiện hưởng lợi sớm hơn, nhiều hơn từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có thay đổi, phá bỏ những tập quán thói quen lạc hậu, trói buộc, thay vào đó là lối sống hiện đại, văn minh công nghiệp, lối sống có văn hoá, v.v... Những cộng đồng dân cư do ít có điều kiện tiếp cận với tiến bộ khoa học hiện đại, với văn minh nhân loại sẽ khó xoá bỏ các phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu và do đó khó có điều kiện vươn lên ngang bằng với các nhóm xã hội khác có trình độ văn minh cao hơn.

* Quá trình hội nhập kinh tế là quá trình đua tranh tri thức, trí tuệ giữa các dân tộc, quốc gia, giữa các cá nhân, nhóm xã hội tất yếu sẽ tác động đến đất nước và nông nghiệp, nông thôn sẽ không nằm ngoài sự tác động ấy

Trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, trong nền kinh tế tri thức, tri thức là nhân tố quyết định vị thế của người lao động. Ai có trình độ tri thức cao hơn, nắm giữ tri thức nhiều hơn, người đó sẽ có cơ hội phát triển, có khả năng sáng tạo và do đó sẽ được đánh giá cao, được tôn trọng. Ngược lại, những người không nắm bắt được tri thức, không sử dụng và phát huy được tri thức trong sản xuất, đua tranh kinh tế thì họ sẽ bị thua thiệt, bị để lại phía sau các "cuộc chơi".

2. Những yếu tố thuộc hệ thống chính sách, thể chế pháp luật

Chế độ chính trị, thể chế pháp luật, hệ thống chính sách là những yếu tố hết sức quan trọng tác động vào nền kinh tế - xã hội nói chung, vào xã hội nông thôn nói riêng. Những yếu tố này là những đảm bảo quan trọng để quá trình hội nhập, phát triển kinh tế thị trường. Quá trình phân tầng, phân hoá xã hội sẽ luôn được diễn ra trong một "khung khổ" có thể chấp nhận được, (kiểm soát được). Đặc biệt là ở xã hội nông thôn, nơi có số cư dân chiếm tới 90% số người nghèo của cả nước.

Ở nước ta, bắt đầu từ sự nghiệp đổi mới, đến nay cơ bản thể chế chính trị của chúng ta là một thể chế chính trị tiến bộ. Nhà nước của chúng ta là một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đất nước được xây dựng trên cơ sở của một nền kinh tế đa thành phần, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Về chính sách kinh tế, chúng ta coi trọng vị thế chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, song luôn có các chính sách đảm bảo sự bình đẳng trong sản xuất kinh doanh

(4)

giữa các doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác.

Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, mọi công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, công chức được làm những gì mà pháp luật cho phép, đảng viên được làm kinh tế tư nhân nhưng phải tuân theo luật pháp của Nhà nước, điều lệ của Đảng và các quy định của TW

"khuyến khích người lao động tăng thu nhập và làm giàu chính đáng, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động"P0F1P; "khuyến khích làm giàu hợp pháp đối với xoá đói giảm nghèo. Coi một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển"P1F2P.

Tại Đại hội X, Đảng ta đã nêu rõ hệ mục tiêu của đổi mới là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và coi đây chính là đặc trưng tổng quát của CNXH. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, Đảng khuyến khích tất cả mọi người làm giàu theo pháp luật và xây dựng nhà nước pháp quyền mạnh để thực hiện và bảo vệ quyền lực của nhân dân.

Song hành với tư tưởng chấp nhận, ủng hộ, khuyến khích người làm giàu hợp thức, Đảng và Nhà nước ta cũng đồng thời đẩy mạnh quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là những hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.

Cùng với những bước tiến lý luận đó của Đại hội X, Nhà nước ta đã có luật phòng chống tham nhũng và luật thực hành tiết kiệm, thay cho pháp lệnh chống tham nhũng trước đây. Quy chế dân chủ ở cơ sở cũng được nâng lên thành pháp lệnh dân chủ cơ sở.

Đảng ta cũng đặc biệt chú trọng thực hiện công bằng xã hội, khẳng định tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, coi nội dung thực chất của chính sách xã hội chính là công bằng xã hội và mục tiêu theo nghĩa hẹp của chính sách xã hội là vấn đề an sinh xã hội. Những luận điểm đó là sự phát triển nhất quán các quan điểm của Đảng trong tiến trình đổi mới từ Đại hội VI tới Đại hội IX và được phát triển nâng cao ở Đại hội X.

Với sự đổi mới và hoàn thiện không ngừng các chủ trương, đường lối chính sách, thể chế pháp luật nhiều thập kỷ nay của Đảng và Nhà nước ta đã luôn là sự đảm bảo "khung" cho những diễn biến của phân tầng xã hội, phân hoá xã hội ở nước ta. Và chính điều đó đã lý giải vì sao, chúng ta đổi mới, phát triển kinh tế thị trường tất yếu diễn ra phân hoá, phân tầng xã hội song vẫn không đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội vẫn ổn định và phát triển theo xu hướng bền vững.

3. Những yếu tố thuộc về vùng môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng có tác

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 31.

2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện giữa nhiệm kỳ khoá VIII. Tháng 1 - 1994, trang 47.

(5)

động đáng kể đến PTXH và phân hoá giàu nghèo

Vùng 6 (Đông Nam Bộ và TP. Hồ Chí Minh) là vùng có vị trí địa lý kinh tế xã hội thuận lợi, vùng trọng điểm, luôn hấp dẫn thu hút được những người đầu tư lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời cũng được nhà nước chú trọng, đầu tư phát triển vì vậy tổng thu ngân sách và thu nhập bình quân đầu người cao nhất so với cả nước.

Vùng 2 (Đồng bằng Bắc Bộ) và vùng 7 (Đồng bằng Sông Cửu Long) tương đương về thu nhập bình quân đầu người đứng ở vị trí trung bình trong phát triển chung của cả nước cũng như mức độ đóng góp ngân sách cho nhà nước.

Vùng 1 (Trung du miền trung Bắc Bộ). Vùng 3 (khu 4 cũ) và Tây Nguyên (vùng 4), Duyên hải Bắc Trung Bộ nghèo nhất. Đây là những vùng hoặc là có nhiều bất lợi về địa hình, thời tiết, giao thông đi lại... hoặc lạc hậu về phong tục, tập quán canh tác. Những vùng này chưa thu hút được nhiều các nhà đầu tư, kinh tế chậm phát triển, bình quân thu nhập đầu người thấp.

Trong các vùng trên, vùng 2 và 6 thu nhập bình quân đầu người cao, tăng trưởng cao, phân tầng, phân hoá cao. Vùng 1, 3, 5 thu nhập thấp, tăng trưởng thấp, phân tầng, phân hoá thấp. Các vùng khác (1, 3, 4, 5, 7) có xu hướng nghèo tương đối so với trung bình của cả nước.

Theo số liệu của Tổng cục thống kê, KSMS năm 2006, tỷ lệ nghèo ở Đông Nam Bộ chỉ là 4,6%. Đồng bằng Sông Hồng là 10,1%, trong khi đó ở Bắc Trung Bộ là 26,6%, Tây Nguyên 24,0%, Tây Bắc là 39,4%.

* Yếu tố nông thôn, thị thành cũng là những yếu tố tác động lớn đến PTXH, phân hoá giàu nghèo. Cũng theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2006, thu nhập bình quân đầu người/tháng ở khu vực đô thị cao gấp 2,09 lần so với ở nông thôn, 90% người nghèo sống ở nông thôn. Ở thành thị năm 2006 chỉ còn 7,7% hộ nghèo, trong khi đó ở nông thôn là 17,0%.

Phân hoá giàu nghèo ở nước ta diễn ra theo "trục" chính là nông thôn - đô thị.

Song hành với nó là "trục" dân tộc Kinh, Hoa - và các dân tộc thiểu số, đồng bằng và rừng núi, vùng xa, vùng sâu.

* Cơ cấu nghề nghiệp:

Cơ cấu nghề nghiệp cũng ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập mức sống, qua đó dẫn đến phân tầng, phân hoá xã hội. Những vùng nông thôn chỉ phát triển thuần nông, độc canh cây lúa thường nghèo. Những làng xã nào mà phát triển đa ngành, đa nghề hoặc chuyển đổi canh tác từ nông nghiệp sang phi nông hoặc nông - thương hỗn hợp thì dễ giàu. Một số làng xã ở Đồng bằng Sông Hồng như Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội), Vũ Hội (Vũ Thư - Thái Bình) là những làng giàu. Một cuộc khảo sát xã hội ở xã Ninh Hiệp năm 1997 cho biết số hộ giàu của làng là

(6)

25%, hộ khá giả 40%, hộ nghèo chỉ có 2%P2F3P. Những năm gần đây tỷ lệ hộ giàu còn gia tăng hơn nữa. Những làng xã có nhiều hộ gia đình phát triển làng nghề, kinh doanh tổng hợp, kết hợp nhiều nghề, nhiều lao động phi nông thì giàu. Ngược lại nếu chỉ phát triển thuần nông rất khó giàu.

Cuộc điều tra xã hội học năm 1997 tại xã Cò Nòi một xã gần như thuần nông ở huyện Mai Sơn - Sơn La thuộc vùng Tây Bắc cho biết tỷ lệ hộ giàu chỉ có 0,7%, khá giàu 6,9%, nghèo chiếm tới 38%P3F4P.

Điều này không chỉ được minh chứng ở các vùng kinh tế, địa lý khác nhau mà còn đúng ngay cả trong một vùng. Xã Yên Thường ở trong Đồng bằng sông Hồng là một xã có 57% hộ gia đình sản xuất thuần nông, và theo đó được xếp vào xã nghèoP4F5P.

* Yếu tố địa lý, môi trường - tự nhiên

Yếu tố địa lý, môi trường, tự nhiên là những điều kiện hết sức quan trọng dẫn đến phân hoá giầu nghèo, phân tầng xã hội. Cư dân sống ở những nơi đất đai màu mỡ, thời tiết thuận hoà, thiên nhiên ưu đãi, giao lưu thuận tiện sẽ có nhiều thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, vươn tới cuộc sống no đủ, khá giả. Ngược lại có những người dân sống ở những vùng đất có địa hình nhiều sườn dốc, thời tiết khắc nghiệt, nhiều giông bão, hạn hán, lũ quét. Họ sinh sống, sản xuất hết sức khó khăn lại thường xuyên phải chống chọi với thiên tai, dịch bệnh. Họ rất khó có được cuộc sống no đủ, khá giả. Những người dân ở một số vùng miền núi phía Bắc, ven biển Bắc Trung Bộ (những vùng vừa nói trên) thường nghèo.

* Cơ sở hạ tầng

Gắn với yếu tố địa lý, điều kiện tự nhiên là cơ sở hạ tầng. Những cư dân ở các vùng có cơ sở hạ tầng tốt, ven thị trấn, thị tứ, điều kiện giao thông thuận lợi, dịch vụ sản xuất, dịch vụ thương mại, dịch vụ sinh hoạt tốt sẽ có nhiều điều kiện để học hành, giao lưu học hỏi, phát triển nghề nghiệp. Họ dễ vươn lên để có cuộc sống khá giả. Ngược lại những cư dân sống ở những vùng cơ sở hạ tầng thấp kém, thường rơi vào nhóm xã hội nghèo.

4. Nhóm các yếu tố thuộc về đặc trưng cá nhân

Nhóm các nhân tố thuộc về cá nhân có liên quan và ảnh hưởng trực tiếp qua lại với nhóm các nhân tố thuộc về xã hội. Sự tách ra để phân tích riêng chỉ là tương đối và vì vậy, trong mỗi bước cũng như trong suốt quá trình phân tích, chúng ta luôn gắn kết và khôi phục chúng trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ với nhau.

3 Số liệu khảo sát năm 1997. Trong cuốn Ninh Hiệp - Truyền thống và phát triển. Tô Duy Hợp chủ biên.

4 Khảo sát tại Cò Nòi 1997 (Đề tài tiềm lực 1997 - 1998 - Phòng xã hội học Nông thôn, Viện Xã hội học).

5 Ninh Hiệp - Truyền thống và phát triển. Tô Duy Hợp (chủ biên) trang 24.

(7)

(1) Nguồn gốc giai tầng xã hội

Xét trên phạm vi toàn thế giới (từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây), người nào có nguồn gốc xuất thân từ giai tầng xã hội càng cao hay dòng dõi càng cao thì người đó càng có điều kiện thuận lợi để thăng tiến, để duy trì những địa vị cao của gia đình (bao gồm cả quyền lực, uy tín xã hội và sự kế thừa tài sản). Họ có cả một môi trường thuận lợi để phát triển, có hệ thống pháp luật để bảo vệ những mối quan hệ quyền lực sẵn có để che chở (hậu thuẫn). Họ có những điều kiện tốt nhất để chăm sóc sức khoẻ, để học hành đỗ đạt, họ được đào tạo ở những trường học tốt nhất, chiếm lấy những nghề nghiệp về chuyên môn cao và nhiều lợi thế, giành được những bằng cấp, địa vị xã hội cao và có cả một mạng lưới các quan hệ xã hội mà cha mẹ họ đã tạo lập để họ bước vào xã hội một cách tự tin và đầy đảm bảo. Trừ một số trường hợp ngoại lệ, phần lớn họ nhận được những lợi thế về di truyền tự nhiên và di truyền xã hội và dễ dàng chiếm lĩnh những vị trí cao trong xã hội. Xét về mặt kinh tế, họ được kế thừa những nguồn tài sản lớn của cha mẹ (bao gồm cả những tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng). Với đầy đủ những điều kiện và phương tiện thuận lợi như sức khoẻ tốt, học vấn cao, tay nghề cao, chuyên môn giỏi, tư liệu sản xuất và nguồn vật chất dồi dào, hệ thống quan hệ xã hội đã được trải thảm, với những kinh nghiệm sản xuất kinh doanh phong phú của cha mẹ truyền lại họ dễ dàng có thể thành đạt, dễ dàng chiếm lĩnh những vị trí cao của xã hội.

Những người có nguồn gốc xuất thân từ những gia đình có địa vị xã hội thấp hơn thì cũng theo đó mà những thuận lợi cũng sẽ thấp đi từng nấc một. Ở các nước phương Tây thì sau tầng lớp thượng lưu là tầng lớp trung lưu trên, trung lưu giữa, trung lưu dưới, tầng lớp lao động. Những người thuộc tầng lớp "đáy" - tầng lớp hạ lưu gần như thiếu hầu hết những điều kiện để đi lên. Họ phải khởi hành từ những điểm xuất phát rất thấp, rất thiếu thốn, họ phải vật lộn với cuộc sống nhưng rút cục phần lớn trong số họ cũng chỉ đủ để "giật gấu vá vai". Đó là một sự thật nghiệt ngã đang tồn tại phổ biến trên toàn thế giới.

Trong xã hội Việt Nam, dễ dàng nhận thấy phần đông những gia đình có địa vị kinh tế - xã hội cao có những điều kiện thuận lợi (điều kiện kinh tế, vốn xã hội) để duy trì và phát triển hơn nữa địa vị kinh tế - xã hội của mình. Theo đó, con em họ cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển (trừ một số ít "cậu ấm", "cô ấm" hư hỏng, bạc nhược), phần lớn các em đều có được nghề nghiệp, học vấn cao, chiếm lĩnh được những vị trí cao trong xã hội. Con em tầng lớp lao động đi lên khó khăn hơn, đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, nhưng tỷ trọng các em thành đạt có mức sống cao cũng ít hơn. Đối với những gia đình nghèo, vốn liếng ít ỏi, học vấn thấp thì con em họ có rất ít những điều kiện để vươn lên. Họ ít được chăm sóc sức khoẻ, khó có điều kiện học hành để đạt được một học vị hay một chuyên môn nghề nghiệp cao, do đó họ rất khó có thể kiếm được một chỗ làm việc tốt và buộc phải làm những công việc đơn giản, bấp bênh, thu nhập thấp, không ổn định và đương nhiên là cuộc sống khó

(8)

khăn.

(2) Trình độ học vấn:

Trình độ học vấn của một người nào đó càng cao thì triển vọng đi lên của người đó càng tốt và ngược lại nếu trình độ học vấn của một người nào càng thấp thì sự thăng tiến của người đó càng khó khăn. Ở các nước phát triển, trình độ học vấn được coi như là "Tấm hộ chiếu" giúp người ta có chiếm lĩnh những công việc tốt, đưa lại thu nhập cao, theo đó là mức sống cao.

Thực tế chỉ ra rằng, những cá nhân có trình độ học vấn cao thì thường năng động hơn những cá nhân có học vấn thấp. Nhờ có học vấn cao, người ta có thể nhận được những công việc có chuyên môn cao, họ có khả năng vươn lên đảm nhận những công việc có nội dung phong phú, phức tạp và đương nhiên theo đó là họ sẽ có thu nhập cao, mức sống cao. Những người có học vấn thấp, rất khó đảm nhiệm được công việc phức tạp và buộc phải làm những công việc đơn giản, thường là vất vả, lam lũ song thu nhập lại thấp, mức sống thấp.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: "những người có trình độ học vấn càng cao, càng có nhiều cơ hội việc làm có thu nhập tốt hơn. Số liệu thống kê năm 1993 cho thấy thêm một năm học vấn đối với một người là mức thu nhập sẽ tăng thêm 1% so với mức trung bình. Đến năm 2002 mức tăng thu nhập tương ứng là 6% và khá ổn định từ đó tới nay"P5F6P.

Từ hai cuộc điều tra mức sống dân cư năm 1993 và 1998 cho thấy một người thêm một năm đi học có khả năng giảm nguy cơ rơi vào hộ nghèo từ 20%

xuống còn 18% và đồng thời tăng cơ hội vươn lên hộ giàu từ 20% lên 23%. Điều này rất dễ hiểu bởi trình độ học vấn có ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của hộ gia đình. "Một hộ gia đình chủ hộ có trình độ trung cấp có mức chi tiêu cao hơn mức trung bình gần 19% và nếu chủ hộ có trình độ đại học thì mức cao hơn là 31%. Con số này là 29% nếu vợ và chồng có trình độ trung cấp và 48% nếu vợ và chồng có trình độ đại học"P6F7P.

Trình độ học vấn thấp, kỹ năng tay nghề kém là nguyên nhân của nghèo đói, ngược lại nghèo đói là cản trở lớn cho các thành viên trong các gia đình nghèo tiếp cận với dịch vụ giáo dục đặc biệt là dịch vụ giáo dục chất lượng. "Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ đi học phổ thông trong nhóm giàu nhất/ nghèo nhất là 4/1"P7F8P.

Các số liệu của nhiều cuộc nghiên cứu gần đây cho biết, có một tương quan tỷ lệ thuận giữa trình độ học vấn và mức giàu của các hộ gia đình. Số liệu điều tra VLSS năm 1997 - 1998 ở Việt Nam cho thấy, những hộ gia đình khá giả và giàu có

6 Báo cáo phát triển Việt Nam 2008, Hà Nội, tr.41.

7 Báo cáo chung của các nhà tài trợ hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, mức sống thời kỳ bùng nổ dân số, Hà Nội, tr.51.

8 Báo cáo phát triển Việt Nam 2000, Hà Nội, tr.62.

(9)

trình độ học vấn cao hơn hẳn những hộ gia đình khác.

Học vấn cao dẫn đến thu nhập cao, mức sống cao không chỉ đúng với việc xem xét trình độ học vấn trung bình của các thành viên trong gia đình mà còn đặc biệt đúng với những chủ hộ gia đình. Kết quả cuộc điều tra mức sống toàn quốc (VLSS) năm 1998 chỉ ra rằng trong số 20% thuộc nhóm hộ giàu nhất trong xã hội, đã có sự đóng góp của 70% nhóm chủ hộ có trình độ học vấn đại học, cao đẳng trở lên, các chủ hộ thuộc các nhóm còn lại chỉ đóng góp vào 30%.

Cuộc khảo sát tại Hà Nội, Quảng Nam và Bình Dương cũng cho thấy, nhóm hộ có trình độ học vấn ở bậc tiểu học và trung học cơ sở chỉ có 6,0% hộ có mức sống thuộc nhóm khá giàu và có tới trên 30% hộ thuộc nhóm hộ có mức sống nghèo. Trong khi đó, nhóm có trình độ học vấn ở bậc cao đẳng, đại học có tới 17,8% hộ có mức sống khá, giàu và chỉ có 5,7% hộ thuộc nhóm nghèo.

Tuy nhiên, khi xét mối tương quan giữa trình độ học vấn và mức giàu, nghèo, chúng ta cũng nhận thấy ở chúng có mối quan hệ hai chiều. Trình độ học vấn cao, có thể mang lại thu nhập cao, mức sống cao. Ngược lại nhờ có thu nhập cao, mức sống cao, các hộ gia đình mới có thể dành thời gian và kinh phí thoả đáng cho con cái họ đi học, tiếp thu kiến thức. Đến lượt đó, kiến thức lại cho phép người ta nắm bắt khoa học - kỹ thuật - công nghệ để làm giàu hơn nữa cho mình.

Nguồn gốc giai tầng xã hội và trình độ học vấn là những yếu tố quan trọng tác động đến PTXH theo thu nhập và mức sống. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là ở chỗ, trong hai yếu tố này thì học vấn lại thường phụ thuộc vào nguồn gốc giai tầng xã hội. Những cuộc khảo cứu XHH chỉ ra rằng, mặc dù một số con em của tầng lớp lao động có năng khiếu và trí thông minh không thua kém gì con em thuộc tầng lớp xã hội có địa vị cao song lại tỏ ra rất khó khăn trong việc nắm lấy những bằng cấp, học vị cao, điều này được giải thích theo hai yếu tố:

- Hoàn cảnh cũng như điều kiện vật chất của những gia đình thuộc tầng lớp bên dưới không đảm bảo chu cấp cho việc học tập của con em họ.

- Sự hạn chế về kiến thức và những giá trị văn hoá của các bậc phụ huynh trong những gia đình thuộc tầng lớp thấp... đã ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục đối với con cái họ.

(3) Loại nghề nghiệp và trình độ nghề nghiệp

* Trước hết là loại hình nghề nghiệp:

Chúng ta biết rằng, trong xã hội không phải nghề nghiệp nào cũng mang lại thu nhập và uy tín nghề nghiệp như nhau mà trong mỗi giai đoạn, mỗi một xã hội cụ thể luôn có một số nghề nghiệp nào đó mang lại thu nhập cao hơn, qua đó mang lại mức sống và uy tín nghề nghiệp cao hơn so với những nghề nghiệp khác.

Ở nước ta trong một số năm gần đây, ai cũng biết rằng các ngành nghề có lợi

(10)

thế nghề nghiệp thường mang lại thu nhập cao hơn ở các ngành nghề khác. Ví dụ:

Bưu chính viễn thông, hàng không, ngân hàng ngoại thương, hải quan... thường là những nghề mang lại thu nhập và uy tín nghề nghiệp cho người lao động cao hơn các ngành nghề khác. Cuộc khảo sát "xu hướng phân tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" của Viện Xã hội học năm 2008 cho thấy nhóm những người sản xuất kinh doanh buôn bán tự xếp mình vào nhóm giàu là 40%, khá giả là 32,5%. Trong khi đó nhóm nông, lâm, ngư nghiệp không có ai xếp mình vào nhóm giàu chỉ có 1,3% xếp mình vào nhóm khá giả. Nhóm cán bộ công chức nhà nước, không có ai xếp mình vào nhóm giàu, 45% xếp mình vào nhóm khá giả.

Sự tác động của yếu tố nghề nghiệp lên mức sống và thu nhập còn thể hiện ở sự khác biệt về trình độ nghề nghiệp.

* Trình độ nghề nghiệp:

Trình độ nghề thường có quan hệ với lứa tuổi và thâm niên nghề nghiệp, theo đó là học vấn của mỗi người với kinh nghiệm hiểu biết và vị trí của họ.

Qua số liệu điều tra VLSS 97-98 cho biết: Độ tuổi trung bình của nhóm hộ gia đình giàu ở Đồng bằng sông Hồng là 37,39 tuổi, cao hơn độ tuổi trung bình của nhóm hộ gia đình nghèo xấp xỉ 4 tuổi. Điều này phản ánh độ tuổi có liên quan đến kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động (bao gồm cả nguồn vốn được tích luỹ) có quan hệ chặt chẽ với thu nhập, mức sống.

(4) Số con và tỷ lệ lao động chính trong các hộ gia đình:

Nhiều cuộc điều tra xã hội học đã chỉ ra rằng gia đình đông con thường dẫn đến đói nghèo. Ở đây có một quan hệ tỷ lệ nghịch giữa số con và đói nghèo. Số con của một gia đình nào đó càng lớn thì cuộc sống của gia đình đó càng nghèo. Tăng một thành viên trong gia đình đặc biệt là trẻ em và người già sẽ làm cho số tiền do người lớn kiếm được phải phân ra nhỏ hơn do số người ăn theo tăng lên.

Năm 1998 số con trung bình/ phụ nữ thuộc nhóm 20% nghèo nhất là 3,5% con so với mức 2,1% con của nhóm 20% giàu nhất. Tỷ lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với nhóm giàu nhất là 0,37%P8F9P.

Theo điều tra dân số Việt Nam năm 2004, số con trung bình/phụ nữ thuộc nhóm 20% nghèo nhất có 3,53 con, cao gấp 1,7 lần so với số con trung bình/phụ nữ thuộc nhóm 20% giàu nhất (2,07%).

Tỷ số nhân khẩu phụ thuộc (số người ăn theo/1 lao động) theo của nhóm nghèo nhất là 0,59% so với 0,37% của nhóm giàu nhất.

Khoảng 70% số hộ có năm con trở lên thuộc vào hộ diện nghèo, trong khi đó ở các hộ có hai con trở xuống là khoảng 27%.

9 Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, 2002, Hà Nội, tr.22.

(11)

Kết quả điều tra đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 4 khoá VII, năm 1999 cho biết 70% ý kiến trả lời: đông con là nguyên nhân quan trọng nhất của đói nghèo;

43% ý kiến trả lời: do đông con mà thiếu việc làm; 46% ý kiến: do đông con mà thiếu đất.

Theo cuộc điều tra "Vai trò nam chủ hộ ngư dân ven biển trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Trung tâm Xã hội học năm 1998 cho thấy 70% số ngư dân nghèo nhìn nhận rằng đông con là nguyên nhân của nghèo đói; hộ gia đình quá nghèo có số con trung bình là 5,38, nhiều hơn 1,04 con so với mức trung bình của các hộ trong cộng đồng.

Tỷ lệ số lao động chính trong mỗi gia đình cũng góp phần tác động đến phân tầng xã hội về thu nhập và mức sống. Trong một mặt bằng trình độ nghề nghiệp tương tự nhau, những hộ gia đình có nhiều lao động chính hơn sẽ làm ra nhiều của cải vật chất hơn, thu thập cao hơn những gia đình ít lao động lại phải đảm nhiệm nuôi dưỡng nhiều em nhỏ, người già, người tàn tật.

(5) Yếu tố sức khoẻ: yếu tố sức khoẻ cũng góp phần tác động đáng kể đến thu nhập, kéo theo đó là mức sống, phân hoá giàu nghèo. Một người có sức khoẻ tốt, anh ta có thể sẽ làm được nhiều việc hơn, năng suất lao động cao hơn, bền bỉ hơn, theo đó mức sống sẽ khá hơn.

Tất nhiên, thu nhập, mức sống cũng tác động đến việc chăm sóc sức khoẻ. Nếu một người nào đó, hay một hộ gia đình nào đó có thu nhập cao, mức sống cao, lẽ dĩ nhiên là họ sẽ dành một phần thu nhập thoả đáng cho việc chăm sóc sức khoẻ, từ đó nâng cao hơn nữa sức lao động - và đến lượt nó lại làm ra nhiều hơn nữa của cải.

Một người bệnh tật, đau ốm nhiều hay một hộ gia đình có nhiều người đau ốm, thường xuyên phải nhập viện. Rõ ràng là họ khó có thể tạo ra được nhiều thu nhập, nguy cơ nghèo là khó tránh khỏi.

(6). Một nhóm các yếu tố khác:

Ngoài những yếu tố trên còn phải kể đến một số yếu tố khác như vị thế xã hội (vốn tổ chức), quan hệ xã hội (vốn xã hội), tài sản, đất đai (vốn kinh tế), đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán, truyền thống văn hoá (vốn văn hoá).

* Vị thế xã hội (vốn tổ chức), bao gồm nơi làm việc và chức vụ đảm nhận. Các nghiên cứu cho thấy những cá nhân làm việc trong các lĩnh vực có lợi thế nghề nghiệp sẽ có thu nhập cao hơn cùng những người tương tự như họ nhưng phải làm việc ở các nghề nghiệp khác.

Ở Việt Nam hiện nay, những người làm trong lĩnh vực như ngân hàng, dầu khí, bưu điện viễn thông, điện lực là nhóm người có mức thu nhập cao hơn người làm trong các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác. Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002 cho thấy: "hộ gia đình có người làm công ăn lương trong khu vực tư nhân có

(12)

mức chi tiêu cao hơn 3% hộ cá thể. Ở đây giả thiết rằng các đặc điểm khác của hộ là như nhau. Chênh lệch này là 12% nếu hộ gia đình có người làm công ăn lương trong khu vực nhà nướcP9F10P. Vị thế xã hội là một yếu tố quan trọng quyết định thu nhập hộ gia đình. Thực tế cho thấy những người làm việc trong cơ quan quyền lực nhà nước thường có mức sống cao hơn so với người dân thường.

* Quan hệ xã hội

Quan hệ xã hội (được coi là vốn xã hội) là yếu tố hết sức quan trọng trong quá trình thăng tiến cũng như vươn lên làm giàu. Một nghiên cứu về nghèo đói ở Phú Thịnh - Hưng Yên năm 2006 cho biết 40,6% người nghèo vay vốn từ ngân hàng chỉ có 33,3% người nghèo vay vốn từ bạn bè, họ hàng và người quen. Trong khi 69,8%

hộ gia đình giàu vay vốn từ người quen, họ hàng bạn bè. Số liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2006 cho thấy 69% người dân tộc thiểu số vay vốn từ nguồn vốn chính thức như Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, chỉ có 13% người dân tộc thiểu số vay vốn từ bạn bè và người thân. Con số này ở người Kinh và người Hoa là 70% và 19%. Những khoản tiền mà người nghèo vay được từ các mối quan hệ này cũng thấp hơn nhiều so với các khoản tiền mà hộ giàu có thể vay. Rõ ràng rằng hộ gia đình giàu được trợ giúp nhiều hơn từ người thân. Qua đó họ lại có thêm cơ hội để giàu thêm. Người nghèo thường ít mối quan hệ, tự ti, tự "đóng" mình, không mạnh dạn mở mang các mối quan hệ. Do đó ít nhận được sự giúp đỡ "ra tấm", "ra miếng" để phát triển sản xuất, từ đây mà cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo sẽ tiếp tục đeo đẳng.

* Nguồn lực sản xuất (vốn, kinh tế)

Ở xã hội nông thôn nước ta, vốn (tài chính), đặc biệt là đất đai là yếu tố hết sức quan trọng giúp người lao động phát triển sản xuất. Người nào, hộ nào có nhiều vốn (tài chính), nhiều nguồn lực sản xuất, đất đai màu mỡ, thường có cơ hội vươn lên giàu, ngược lại người nào, hộ nào vốn tài chính ít, đất đai eo hẹp thường nghèo. Đất đai là một loại tài sản sinh lời khá lớn ở Việt Nam đặc biệt đối với các hộ gia đình nông dân. Chính vì vậy việc chia đất cho các hộ nông nghiệp đã đem lại hiệu quả lớn trong công tác xoá đói giảm nghèo những năm vừa qua.

Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay đang có xu hướng tích tụ tập trung đất đai vào một số chủ hộ sản xuất, trong trường hợp này, các chủ trang trại trở nên giàu có và họ tập trung trong tay được nhiều nguồn lực, thuận lợi cho sự phát triển mở rộng sản xuất, vươn lên làm giàu. Trái lại một bộ phận lớn lao động đang bị mất đất do làm ăn thất bát, cầm cố ruộng đất họ rơi vào tình trạng nghèo. Mất đất đang là xu hướng phổ biến diễn ra ở khu vực đang tiến hành chuyển đổi đất đai từ đất nông nghiệp sang đất công nghiệp ở các khu vực ven đô. Mất đất canh tác, không chuyển đổi được nghề nghiệp đang là vấn đề nan giải ở khu vực ven đô

10 Nghèo - Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Hà Nội, tr.47.

(13)

này. Điều này dẫn đến nguy cơ hình thành nhóm nghèo mới. Do đó, giải quyết vấn đề đất đai, công ăn việc làm đang là vấn đề cấp thiết hiện nay.

* Đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán (vốn văn hoá).

Truyền thống văn hoá là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lối sống, cách suy nghĩ của mỗi người, do đó nó ảnh hưởng đến hiệu quả của sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến chi tiêu trong gia đình vì vậy nó ảnh hưởng gián tiếp khả năng làm giàu hoặc dẫn đến nghèo đói.

Người Kinh thường năng động, tháo vát hơn những người dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa.

Một số đồng bào vùng dân tộc ít người bị chi phối bởi nhiều tập tục lạc hậu, họ ngại đổi mới, ngại giao tiếp, tâm lý trông chờ, ỷ lại là những vật cản để họ vươn lên thoát nghèo.

Tình trạng hôn nhân cũng là một yếu tố có tác động đến phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo ở nông thôn. Rõ ràng rằng, những gia đình hạnh phúc, vẹn nguyên sẽ có nhiều cơ hội vươn lên thoát nghèo. Thuận vợ, thuận chồng, gia đình đoàn kết, dân chủ, đồng thuận sẽ có nhiều cơ hội vươn lên thoát nghèo so với các gia đình đổ vỡ./.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

- Kết luận, nhận định: Giáo viên đưa ra các kết quả chính xác nhất, nhận xét, đối chiếu và so sánh kết quả của cả lớp để từ đó có căn cứ điều chỉnh nội dung dạy

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) đã khẳng định vai trò quan trọng của thành phần kinh tế nhà nước:“Nền kinh tế thị trường định

Thùc tÕ nµy sÏ lµm n¶y sinh nh÷ng vÊn ®Ò, nh÷ng m©u thuÉn gi÷a t¨ng tr­ëng kinh tÕ vµ nh÷ng vÊn ®Ò cña trÎ em nãi chung vµ viÖc thùc hiÖn quyÒn trÎ em nãi

Tuy nhiên, việc sử dụng mô hình ñể tính toán sẽ cho biết giá trị cụ thể là với diện tích ñất nhất ñịnh, ñể tối ưu hóa chi phí vận chuyển và xử lý thì công

Thủ đoạn thâm độc nhất của thực dân Pháp trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất là:.. Đánh thuế nặng vào các

1) Mục đích chính sách cai trị Đông Dương của thực dân Pháp thể hiện ở bộ máy nhà nước như thế nào?. a) Chia rẽ các dân tộc ở Đông Dương, các

Đào Thị Vinh Tìm hiểu vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong nền kinh tế tri thức đó, con người chính là yếu tố trung tâm, là chủ thể kiến tạo xã hội, do đó yêu cầu đặt ra là con người luôn phải thích nghi với những tri thức