• Không có kết quả nào được tìm thấy

Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu"

Copied!
10
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

TẤT CẢ LÝ THUYẾT CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA 1. Tác giả Nguyễn Minh Châu

- Nguyễn Minh Châu là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết kiếm tìm “ cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” từ những ngày còn trong khói lửa, Nguyễn Minh Châu đã tâm niệm “ Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của dân tộc, sau này ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng người, làm sao cho con người ngày càng tốt đẹp, chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”. Tâm niệm ấy thể hiện rất rõ thành hai giai đoạn sáng tác của cây bút này.

+ Trước 1975, Nguyễn Minh Châu được biết đến với những tác phẩm đậm chất sử thi như Cửa Sông(1967), Những vùng trời khắc nhau(1970),Dấu chân người lính (1972). Người đọc chắc hẳn sẽ không thể quên được hình ảnh Nguyệt cô thanh niên xung phong đẹp đến trong suốt, đẹp đến mức như được “bao bọc trong một bầu không khí vô trùng” khi đọc một sáng tác được viết vào thời kì đấu tranh chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Nguyễn Minh Châu, thiên tình ca Mảnh trăng cuối rừng.

+ Sau 1975, đặc biệt là những năm đầu thập niên 80, chính Nguyễn Minh Châu lại là người đi tiên phong, là người mở đường đầy tinh anh và tài năng cho công cuộc đổi mới văn học. Sau 1975, đất nước thoát khỏi hoàn cảnh chiến tranh, cuộc sống trở lại với thời bình, Nguyễn Minh Châu có những trăn trở cách tân dũng cảm và đầy bản lĩnh, cảm hứng sử thi đã được thay bằng cảm hứng thế sự, đời tư, con người sử thi đã được thay bằng con người đời thường với cái đa chiều muôn mặt của nó. Từ Dấu chân người lính (1970) đến Bức tranh(1982), Chiếc thuyền ngoài xa(1983), là một bước tiến dài rất đáng trân trọng trong hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều sâu cuộc sống con người của Nguyễn Minh Châu. Các tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này: Miền

cháy(1977), Những người đi trong rừng ra (1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau ( 1989)

2. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (1987).

Tóm tắt tác phẩm: Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh cho tấm lịch năm sau. Sau nhiều ngày kiên nhẫn "phục kích" anh đã chụp được một bức ảnh đẹp - Đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng anh hết sức kinh ngạc khi chứng kiến cảnh chiếc thuyền vào bờ: một gã chồng vũ phu đánh đập vợ dã man, đứa con vì bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha. Những ngày sau đó vẫn tiếp diễn cảnh tượng đau lòng đó nên Phùng đã can thiệp. Người đàn bà làng chài được mời đến toà án huyện nhưng chị đã từ chối sự giúp đỡ của anh .Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình.Rời vùng biển với khá nhiều ảnh , người nghệ sĩ đã có một tấm ảnh được chọn vào lịch năm ấy.Và mỗi lần đứng trước tấm ảnh , người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng của sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.

- Khái quát : Chiếc thuyền ngoài xa rất tiêu biểu cho hướng tiếp cần đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Cái nhìn hiện thực đa chiều đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm : những quy luật tất yếu lẫn yếu tố ngẫu nhiên may rủi khó bề lường hết. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những nghịch lí không dáng có. Gánh nặng mưu sinh đè trĩu trên đôi vai cặp vợ chồng hàng chài, giam hãm họ trong hình ảnh tối tăm, đói khổ, bấpbênh. Người chồng tha hóa dần, trở tha thành kẻ vũ phu, thô bạo, người vợ vì thương con nên nhẫn nhục chịu

(2)

đựng sự ngược đãi của chồng mà khôngbiết rằng đã làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại. Cậu bé yêu mẹ, bênh vực mẹ thành ra thù địch với cha và ai biết rằng liệu trong tương lại cậu có sống khác cha mình? Phía sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp tình thương yêu, sự trân trọng trước vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và bao dung của người phụ nữ. Đó không phải là kiểu vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường. Theo ông, tình yêu của người nghệ sĩ,vừa là một niềm hân hoan, say mê, vừa là một niềm đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài

thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình.

III. CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN 1. Thông qua hệ thống nhân vật a. Người đàn bà hàng chài:

- Tên gọi : người đàn bà hàng chài. Nguyễn Minh Châu đã không gọi chị cũng giống như trăm người đàn bà tên cụ thể mà chỉ gọi phiếm định, vùng biển khác, nhỏ bé, vô danh. Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.

- Ngoại hình: trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn gợi ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn, người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ngủ lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

- Số phận: Bất hạnh.Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu,nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...

+ Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ

+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh

+ Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...

+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh,như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi choông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn và dường như người. Đây là một người phụ nữ, người vợ đàn bà coi đó là một lẽ đương nhiên nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn. Số phận đầy bi kịch được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

- Phẩm chất, tính cách:

+ Nhẫn nhục, chịu đựng: chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đãrất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.

+ Yêu thương con tha thiết(“ phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”).Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà trên

thuyền chúng tôi phải sống cho con, ko thể sống cho mình như trên đất được".Tình thương vô bờ đối với những đứa con Phân tích ty của chị với thằng Phác, chị gưi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,....

=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đauđớn đầy xót xa . + Người đàn bà vị tha .Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ( “...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hòa thuận”)

(3)

+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời.Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra ngườiđàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”).Vì hoàn cảnh: trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề.Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong.Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của ngườiđàn bà là không thể khác được.Đắng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, khôngthể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.

b. Người chồng

- Vốn là anh con trai chất phác, cục mịch nhưng hiền lành

- Giờ là một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác, khốn khổ:

+ Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền.

+ Mái tóc tổ quạ.

+ Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn.

+ Hàng lông mày cháy nắng.

+ Hai con mắt độc dữ.

- Là người chồng lầm lì, vũ phu, đánh vợ như một thói quên để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ đời

thường. Người đàn ông này vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây đau khổ cho người thân.Những cư dân vùng biển qua ngòi bút của Nguyễn Minh Châu có cái gì bí ẩn, hoang sơ, dữ dội như sóng, như cuồng phong.

c.Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng

- Là nghệ sĩ nhiếp ảnh, từng là một người lính vào sinh ra tử; Phùng là nhân vật tư tưởng cảu tác phẩm. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấmảnh lịch hoàn chỉnh.

- Vốn là người lính chiến trường nên Phùng căm ghét mọi áp bức, bất công. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của chiếc thuyền trên biển lúc bình minh bao nhiêu thì lại càng bàng hoàng, sửng sốt, kinh ngạc,bất bình khi chứng kiến cảnh người chồng ngược đãi, vũ phu bấy nhiêu.

- Câu chuyện người đàn bà đã làm thay đổi cách nhìn người, nhìn đời ở Phùng. Anh nhận thức rõ hơn chân lí nghệ thuật của người nghệ sĩ. Cáinhìn và cảm nhận của Phùng là sự khám phá và phát hiện sâu sắc về đờisống con người. Chứng kiến và thấu hiểu nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng, anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí tưởng như nghịch lí ở gia đình hàng chài. Anh hiểu thêm tính cách Đẩu và hiểu thêm chính mình.

d. Phác

- Phác không còn là 1 cậu bé như những cậu bé cùng trang lứa nữa,mà cậu thật sự là 1 người lớn, hiểu biết, giàu tình cảm tuy lòng cậu đầy vết xước trong trái tim.

- Cảm động nhất là hình ảnh " ... cái thằng nhỏ lặng lẽ đưa mấy ngóntay khẽ sờ trên khuôn mặt

(4)

người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy những nốt rỗ chằng chịt" hay như chi tiết thằng Phác từng tuyên bố rằng "Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh".

- Có lẽ trg lòng thằng bé vẫn hết mực yêu thương mẹ và ba của mìnhn hưng nó cũng rất rạch ròi, cương quyết với hành động sai trái của bố khi đối xử tàn bạo với mẹ của nó.Với nhân vật Phác Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề lớn cho xã hội.Đó là tương lai của những đứa trẻ sống trong cảnh bạo hành gia đình rồi sẽ ra sao?

e. Đẩu

-Nhân vật Đẩu chỉ là nhân vật phụ, nhưng lại không thể thiếu trong tácphẩm. Bởi chính Đẩu đã cho chúng ta thấy được rõ nhất cái nhìn đời qua qua lý thuyết, chỉ nhìn vào cái bề ngoài của sự việc mà quên đi tìm hiểu nguồngốc của nó.

- Nhân vật Đẩu- vị Bao Công của phố biển, người đại diện cho công lí, sau khi tiếp xúc với người đàn bà hàng chài đã vỡ ra ban nhiều điều cayđắng của cuộc đời: cuộc mưu sinh quá nghiệt ngã đã đẩy con người vào bế tắc. Đẩu từng là một người lính. Anh từng chiến đấu để giải phóng mảnh đất này nhưng giờ đây lại không thể giải phóng nổi số phận của người đàn bà hàng chài. Đẩu nắm trong tay luật pháp - cán cân công lí của xã hội nhưng không thể giúp được người đàn bà này.

- Qua nhân vật Đẩu, ta như hiểu thêm rằng pháp luật đội khi cũng bất lực nếu như con người không tự nhận thức và cứu chính bản thân mình.

2. Kết cấu tác phẩm:

Đoạn 1: (Từ đầu đến....”chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai pháthiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.

- Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh: (Bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ)

+ Phóng viên Phùng gặp một cảnh rất đắt trời cho: mũi thuyền in một nét mơ hồ vào bầu trời mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn quanhững cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y Bức tranh toàn bích hệt cánh một con dơi

+ Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mang đến khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn anh - đó là niềm hạnh phúc của khám phá và sáng tạo =>“Bản chất cái đẹp là đạo đức”.Mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và cuộc đời.

+ Hiện thực đằng sau cảnh đẹp.Khi chiếc thuyền đó đâm thẳng vào bờ thì sự thật về cuộc sống lam lũ,khắc nghiệt hiện ra:Người đàn ông hùng hổ thô bạo dùng dây lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà vừa đánh vừa thở hồng hộc, nghiến răng ken két, vừa nguyền rủa bằng giọng "rên rỉ đau đớn"...Người đàn bà nhẫn nhục không kêu, không chống trả, không tìm cách trốn. Phác chạy đến, giằng lấy chiếc thắt lưng, vung chiếc khóa sắt quật vào người đàn ông.Tâm hồn đang thăng hoa bởi cái đẹp >< choáng váng vì sự xuật hiện của đôi vợ chồng thuyền chài, hành động vũ phu của người chồng và hành động phản kháng cảu đứa con trai.Bức tranh thiên nhiên >< Bức tranh Hiện thực cuộc sống.Mâu thuẫn nghịch lý tồn tại giữa cái đẹp vẫn có cảnh sống tối tăm, cực

nhọc -> Phùng sống trong nhiều cảm xúc mạnh: từ ngỡ ngàng, ngơ ngác đến cảm thông rồi thấm thía. Niềm tin trong anh bị lung lay...

=> Anh bắt đầu "ngộ" ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

*Bức tranh cuộc sống đầy bất ngờ và nghịch lí.

Tình huống ấy khiến người nghệ sĩ nhận ra rằng: Đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là chân lí của sự hoàn thiện, là đạo đức.

* Nghịch lý (bên ngoài- bên trong):

+ Trong bức ảnh mà Phùng chụp thì chiếc thuyền ngoài xa là chân lý của sự toàn bích cảnh, cùng

(5)

với bối cảnh của nó là bình minh trên biển thiện, hoàn mĩ.

+ Nhưng khi vài bóng người lớn lẫn trẻ con… trên chiếc mui khum khum ấy lần lượt hiện lên bờ và cảnh bạo hành diễn ra cùng nỗi đau đớn,nhức nhối của các nhân vật đã khiến Phùng có cái nhìn nghệ thuật gần cuộc đời Đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.Mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và cuộc đời.Mối quan hệ nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật ý nghĩa

Đoạn 2: (Tiếp đến . sóng gió giữa phá): Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện.

- Thái độ của các nhân vật

+ Người đàn bà hàng chài: Ban đầu có vẻ sợ sệt, lúng túng, vừa đặt rón rến đến ngồi ghé vào chân vào phòng liền tìm đến một góc tối để ngồi cúi mặt xuống, chắp tay vái lạy lia lịa khi mép ghế và cố thu người lại mất hết vẻ khúm núm, sợ sệt, lộ vẻ sắc sảo khi được đè nghị li hôn chồng

kể chuyện đời mình.

+Đẩu: cố làm ra vẻ thân mật, tự nhiên khi tiếp chuyện người đàn bànói với vẻ hào hứng giọng trở nên giận dữ khi kết tội người đàn ông vỡ ra nhiều điều, Đẩu trông rất nghiêm nghị của một người bảovệ công lí và đầy suy nghĩ.

+ Phùng: cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà nhất quyết không đầy băn khoăn và vỡ lẽ khi nghe người đàn bà trần tình về cuộc bỏ chồng đời mình.

- Cách xưng hô:xưng chị, gọi các chú :

+ Người đàn bà: Thưa đã,… con lạy quý tòa xưng tôi, gọi các chú chị bà +Đẩu: gọi chị

- Lí lẽ:

+ Đẩu, Phùng:“ Chị không sống nổi với gã vũ phu ấy đâu”,“Chủ trương của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận”

+ Người đàn bà hàng chài:

“ Quý tòa bắt tộ con cúng được, phạt tù con cúng được, đừng bắt con bỏ nó”

“…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ, khó nhọc,…”

“ Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đối khổ hơn trước kia”

“ Cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật”

“Từ ngày cách mạng về đã cấp đất nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được”

“Là bởi các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào nào nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”

“Ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho không lớn nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”

“Vui nhất là lúc nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”

- Cách nhìn nhận về người chồng:

+ Đẩu, Phùng: vũ phu, tàn bạo

+Người đàn bà hàng chài: đáng thương, bà thấu hiểu cho sự bế tắc của người chồng trong cuộc sống.

=> Người đàn bà hàng chài nhìn nhận người chồng của mình toàn diện hơn, sâu sắc hơn.

=> Đối với mọi sự việc hiện tượng trong cuộc sống phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.

=> Mọi người đặc biệt là người nghệ sỹ cần gắn bó với cuộc đời, phải tìm trong hiện thực vẻ đẹp của cuộc sống, phải dũng cảm ghi lại những số phận, cảnh đời lam lũ, cực khổ. Nghệ thuật phải

(6)

gắn liền với cuộc sống con người, tìm ra lối thoát thực tế cho cảnh đời đói nghèo tối tăm.

Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất khả tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó.

Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này.

Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp?. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là một giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn. Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: “Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.

Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “Con sói con” - cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn

áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.

Đoạn 3: (Còn lại) Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống

“ Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh...”

- Qua “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống:

- Nghệ thuật không ở đâu xa mà hiện hữu ngay trong cuộc sống hằng ngày cảu chúng ta. Nghệ thuật không chỉ là một bức tranh đẹp mà còn là số phận, cuộc sống của những người nghèo khổ như người đàn bà hàng chài,...

- Nghệ thuật chỉ thực sự cần cho con người, có ích cho tiến bộ xã hội khi nó chưa đựng tính nhân văn, nghĩa là nó không thể xa lạ với số phận con người.

- Bằng sự đối lập giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh” của ngoại cảnh với hiện thực nhọc nhằn mà những người dân chài đang phải chấp nhận, có thể thấy rằng nghệ thuật có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, phải đóng góp tiếng nói tích cực vào việc giải phóng con người khỏi sự nghèo đói, tăm tối và bạo lực.

- Nghệ thuật không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng tránh sự thật về con người.

- Nghệ thuật đòi hỏi người nghệ sĩ phải có lòng yêu thương, có can đảm đối diện với cái xấu, cái ác và nhất là khả năng thấu hiểu đời sống.

3. Chi tiết nghệ thuật:

a. Nhan đề

- Nghĩa tường minh:

+ Chiếc thuyền ngoài xa–cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.

(7)

+ Chiếc thuyền ngoài xa–hiện thực nhọc nhằn cay đắng của người dân chài.

- Nghĩa hàm ẩn:

+Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật nói chung phải là tiếng nói trung thực, thấu hiểu về số phận con người. Chủ nghĩa nhân đạo trong nghệ thuật không thể xa lạ với số phận con người.Tên truyện ngắn là "Chiếc thuyền ngoài xa", và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuất hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của người trưởng phòng "lắm sáng kiến" đối với nhân vật xưng "tôi" - người nghệ sỹ nhiếp ảnh:

"...Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người.

Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền "mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái", rồi tiếp theo nữa là "một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn"

và cuối cùng tập trung vào "một chiếc thuyền lướt vó ...đang chèo thẳng vào trước mặt tôi". Đây chính là "Chiếc thuyền ngoài xa".

Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ", và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh mà nó "được treo ở rất nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật".

Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm thấy "trái tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như cái cảm giác mà "tôi" đã từng có. Song, dù có là người sành nghệ thuật đến đâu, cũng không ai khám phá ra được: Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình... Cái sự thật bên trong ấy chỉ được người thợ chụp ảnh nhận ra khi "chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng" - Tức là ở một khoảng cách gần, rất gần!

->Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc - thuyền - ngoài - xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc - thuyền - khi - đến - gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ản dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.

Chính vì thế, cho dù chỉ là một bức ảnh "hoàn toàn thế giới tĩnh vật"(hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó chỉ là "những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng") nhưng nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta - cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó - bao giờ cũng như thấy "một người đàn bà bước ra " sau mỗi lần suy tư, ngắm

(8)

nhìn thành quả nghệ thuật mà mình tạo ra nhờ cái giây phút "trời cho" ấy.

Trước Nguyễn Minh Châu, nhà văn Nam Cao từng quan niệm "Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối... Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than"(Trăng sáng). Là người đi sau, Nguyễn Minh Châu không lặp lại quan niệm đó, vì hình ảnh "chiếc thuyền ngoài xa" mang vẻ đẹp nghệ thuật thực sự chứ không hề là "ánh trăng lừa dối". Điều mà nhà văn muốn người đọc lưu tâm là cần phải có cái nhìn đa chiều, phổ quát mới có thể cảm nhận hết cái gai góc, phức tạp của cuộc đời này, bởi như ông đã nói "con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự".

b. Tình huống

+ Tình huống 1: Người nghệ sĩ choáng ngợp trước vẻ đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên.(III/ kết cấu tác phẩm/ đoạn 1/ cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh)

+ Tình huống 2: Người nghệ sĩ kinh ngạc khi chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ dã man trên bờ biển(III/kết cáu tác phẩm/đoạn 1/hiện thực đằng sau bức ảnh)

+ Tình huống 3: người phụ nữa cam chịu bị đánh, không kêu rên,không thốt lên một lời(III/ kết cấu tác phẩm/ hiện thực đằng sau bức ảnh)

+ Tình huống 4: Phùng ngạc nhiên trước cảnh người đàn bà nhất quyết không chịu bỏ chồng ->

người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã thay đổi quan điểm về đối tượng nghệ thuật(III/kết cấu tác phẩm/

đoạn2, đoạn3)

Sức hấp dẫn của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là ở tình huống truyện-một tình huống bất ngờ và đầy nghịch lí, một tình huống nhận thức. Tác phẩm bắt đầu bằng cái vẻ ngoài bình dị của một câu chuyênh bình thường với những chi tiết bình thường của dòng đời sống.

Phùng- một phóng viên nhiếp ảnh tìm về một vùng biển miền trung để tìm cảnh cho một tấm ảnh lịch trong chuyên đề về biển. Anh đã tìm kiếm, đã bấm máy và có lúc đã ngập tràn hạnh phúc như mình vừa chứng kiến, vừa đối diện với vẻ đẹp tòan diện, tòan bích. Tất cả những gì anh chứng kiến thật đẹp, thật đáng yêu, đáng ca ngợ. Đó là một cuộc sống lao động đầm ấm khỏe khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…Nhưng ngay sau sự phát hiện về cái đẹp, cái lãng mạn của đời sống là sự phát hiện thứ hai đầy trớ trêu đến tàn nhẫn, một hiện thực đến trần trụi khắc nghiệt.

Hình ảnh người đàn bà khốn khổ với cặp mắt mệt mỏi vì thiếu ngủ, bànn chân nhợt trắng phải nhẫn nhục chịu dựng cơn thịnh nộ vô cớ của chồng, và hình ảnh lão đàn ông đọc ác vũ phu đang trút lên người vợ mình những đòn roi dã man. Không còn đâu những hình ảnh đẹp mà anh đã từng chứng kiến – những vẻ đẹp toàn bích, toàn mĩ. Thay vào đó, tất cả nhứng gì chứng kiến đã gây một chấn động tinh thần lớn lao đối với người nghệ sĩ. Lần đối chứng ấy đã buộc anh phải có sự điều chỉnh lại cách nhìn cuộc đời và con người. Sự thật ở đời không phải là dòng chảy xuôi chiều của ý nghĩ chủ quan, những mảnh đời bất hạnh đanhg bủa vaycuộc sống chúng ta.

c. Hình ảnh, chi tiết biểu trưng

-Hình ảnh biểu trưng là một phương diện cách tân nghệ thuật độc đáotrong sáng tác của

Nguyễn Minh Châu, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn.Chính những biểu tượng có sức hàm nghĩa lớn đã đưa đến chiều sâu mới chohành trình khám phá nội tâm con người, khám phát hiện thực cuộc sống tácphẩm: “ Những biểu tượng ấy mở rộng khả năng bao quát hiện thực của ông,giúp ông lí giải được nhiều điều “vô thường” nơi cõi nhân gian đầy tục lụy,làm sáng tỏ những khoảnh khắc

“bừng ngộ” của nhận thức àm lí trí tỉnh táokhông lí giải được”(Dương Thị Thanh Hiên).

- Hình ảnh “ chiếc thuyền ngoài xa”: vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên.

- Trước hết là cảnh người đàn ông đánh vợ một cách thô bạo và manrợ đằng sau chiếc xe tăng hỏng. Trên mảnh đất đàm phá đầy tinh thần cáchmạng ấy, chiến tranh đã đi qua từ lâu. Những chiếc xe tăng, chứng tích củamột thời bom đạn ác liệt giờ trở thành phế tích đang dần mục sét qua

(9)

nămtháng và chất muối ămnj của vùng biển. Những chiếc xe rà phá bom mìnđang cố gắng thu dọn những gì còn sót lại của chiến tranh có thể gây thêmnỗi đau. Thế nhưng bên cạnh cuộc chiến đấu ấy, bên cạnh nỗi đau ấy là mộtcuộc chiến đấu mới, một nỗi đau mới. Cuộc chiến đấu ấy còn cam go hơn,nỗi đau ấy e chừng dai dẳng hơn. Đó là cuộc chiến đấu với nghèo đói và tămtối. Trên thuyền phải có người đàn ông dù có man rợ và tàn bạo đến đâu đinữa. Sự khẳng định như chân lí của người đàn abf làm vị chánh án chỉ biết“trút một tiếng thở dài đầy chua chát”. Đẩu từng là người línhbams trụ vàchiến đấu thắng lợi trên vùng biển này. Anh hiểu cặn hẽ từng chiếc xe tănghỏng kia, anh cũng am hiểu cặn kẽ từng chiếc xe tăng điều khoản của phápluật nhưng anh không thể hiểu nổi cái cơ sự về người đàn ông đánh vợ, anhkhông thể lí giải nổi cái chân lí bình dị mà người đàn bà đã thổ lộ. Anh đi từngạc nhiên, sững sờ đến chua chát và cuối truyện là sự nhận thức bi đát củanhững cảnh đời khốn khổ. Chiến tranh có quy luật của chiến tranh, dữ dộinhưng đơn giản, đời thường thì muôn vàn đa sự, đa đoan. Qua hình ảnh biểutượng đày hàm nghĩa: những chiếc xe tăng cũ nát của chiến tranh và nhữngxung đột đau đớn của đời thường, nguyễn Minh Châu muốn thủ thỉ với chúng ta về cái Đẹp và cái Thật, vè những cay đắng, cam go còn giày vò baocuộc đời cơ cực. Ông cũng khắc khoải nói với chúng ta rằng: hãy cúi xuốngnếm lấy vị ămnj của muối, cúi xuống để hiểu đời sốn, hiểu con người, để cócái nhìn cận nhân tâm hơn.

- Hình ảnh:” ...lúc nào cũng nhìn vào tấm lưng áo bạc phếch và ráchrưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”, hình ảnh người đàn ông vừađánh vừa rên rỉ: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ôngnhờ”, hình ảnh “lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bànchân chữ bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng”: Sựbất lực, bế tắc của người đàn ông trước tình cảnh khốn khó của gia đình.

- Hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và bức ảnh nghệ thuật về chiếcthuyền ngoài xa: Bức tranh nghệ thuật và cuộ đời quả có sự lệch pha nhau.Bức ảnh nghệ thuật gợi lên bao thức nhận đau đớn.

Ở đó không chỉ cónhững giọt sương mai thưo mộng như trong tranh thủy mặc mà là những giọtmuối mặn đầy xót xa của cuộ sống trần trụi đời thường. Nghệ thuật chính làcuộ sống, người nghệ sĩ phải có góc nhìn và cự li khám phá cuộc sống gầngũi hơn, có như vậy anh mới pahrn ánh đúng, mới thấu hiểu hết muôn sự đađoan của cõi đời, khốn khổ đấy, đau đớn đấy nhưng vô cùng đẹp đẽ.

IV. MỞ RỘNG 1.Giá trị nhân đạo

- Nhà văn thật sự cảm thông, đau xót trước tình trạng bạo lực tronggia đình hàng chài, trước bi kịch gia đình khủng khiếp, trước thân phận củangười phụ nữ miền biển; bày tỏ tình yêu thương đối với những con ngườinhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, nhọc nhằn

- Đề cập đến tình trạng bạo lực trong gia đìn, Nguyễn Minh Châu đãlàm dấy lên trong lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu về tình trạngphụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sơm nhiễm thói vũ phu,thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống.

- Nhà văn không chỉ lên án bạo lự, kẻ vũ phu mà còn tỏ ra thấu hiểu,cảm thông cho gánh nặng mưu sinh và sự chịu đựng của người phụ nữ.

- Nhà văn phát hiện, khẳng định vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài,người phụ nữ Việt Nam:

Chăm chỉ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha vàđức hi sinh.

- Tác giả trăn trở và chỉ ra nguy cơ đáng sợ nếu không giải phóng conngười khỏi đói nghèo, tăm tối thì không thể tiêu diệt được cái xấu, cái ác.

2. Quan niệm nghệ thuật

- Tấm ảnh trên tờ lịch chỉ là bức ảnh nghệ thuật chứ không phải là bứctranh đời sống. Bằng biểu

(10)

tượng chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châuđã thể hiện thành công một quan niệm đã trưor thành chân: Nghệ thuật phảibắt nguồn từ mạch ngầm đời sống, văn chương nghệ thuật phải phản ánhchân thực hiện thực(đây không chỉ là hiện thực bên ngoài mà là hiện thực đachiều của cuộc sống, kể cả mảng hiện thực trừu tượng là hiện thực tâm hồn.Văn học nghệ thuật phải quan tâm đến vấn đề cốt lõi: số phận con người, cáiđẹp không tách rời với chân thật.

- Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, nhưng sự thật cuộc đời lại ởrất gần. Và phải chăng qua tình huống phát hiện của nhân vật Phùng,Nguyễn Minh Châu bày tỏ quan niệm: Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đờibởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi làmột người nghệ sĩ rung động trước cái đẹp thì hãy là một người biết yêu,ghét, vui, buồn trươc mọi lẽ đời thường, biết hành động để có một cuộc sốngxứng đáng với con người.

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn trăn trở trên từng trang viết về chức năng của văn học và thiên chức của người nghệ sĩ như ông đã từng tâm sự:“Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử 3. Nghệ thuật thể hiện:

- Tình huống truyện độc đáo.

- Giọng điệu trần thuật đa dạng:

+ Khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển.

+ Lo âu khi tái hiện lời thoại của người đàn bà

+ Xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược đãi vợ con.

+ Day dứt khắc khoải khi thấy người đàn bà chưa tìm được lối thoát...

- Nghệ thuật khắc họa nhân vật (Phùng, người phụ nữ hàng chài,Phác, Đẩu .)

- Lựa chọn các chi tiết đặc sắc (bãi xe tăng cũ, vái lạy thằng Phác &Đẩu, chiếc thuyền xuất hiện.) - Lời văn giản dị, giọng văn nhỏ nhẹ mà thấm thía ý nghĩa triết lí tự nó toát ra từ đời sống, từ trải nghiệm.

V. KẾT LUẬN 1. Nội dung:

Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu không chỉ xót xa thương cảm người phụ nữ bất hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn, thô bạo của người chồng trong gia đình. Đồng thời báo động tình trạng bạo lực trong gia đình đang làm khô héo, rạn vỡ tâm hồn con người. Ca ngợi tình mẫu tử, trântrọng khát vọng được sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.=> Giá trị nhân đạo sâu sắc 2. Nghệ thuật

- Tình huống truyện độc đáo.

+Chiếc thuyền là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên đẹp và cuộc sống sinh hoạt của người dân làng chài.

+Chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về sự bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sông nước.

+Chiếc thuyền ngoài xa biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Triển

Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam Cao) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền

Đầu thế kỷ XX, dưới tác động của văn hóa phương Tây và do nhu cầu thưởng thức của tầng lớp thị dân đương thời, đồng thời để bắt kịp xu hướng đổi mới của các loại

lao động cần cù và óc sáng tạo kì diệu, ông đã cống hiến cho loài người hơn một ngàn sáng chế, góp phần làm thay đổi cuộc sống trên trái đất chúng ta.. Ai nhìn cũng

Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một tâm hồn nhạy cảm và say mê cái

Bài 3: Chọn từ trong ngoặc điền vào chố trống để được những câu văn có hình ảnh nhân hóa.. Thiên nhiên thật……… (tốt đẹp, hữu ích,

Trong đoạn cuối truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật nghệ sĩ Phùng mỗi khi ngắm kĩ và nhìn lâu hơn tấm ảnh do mình chụp thường thấy hiện

Nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích; cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. Triển khai