• Không có kết quả nào được tìm thấy

VỐN XÃ HỘI VÀ MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU VỐN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "VỐN XÃ HỘI VÀ MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU VỐN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY "

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

VỐN XÃ HỘI VÀ MẤY VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG NGHIÊN CỨU VỐN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

NGUYỄN TUẤN ANH*

1. Lược sử khái niệm và những quan niệm khác nhau về vốn xã hội

Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn văn hoá, vốn con người. Lyda Judson Hanifan là người đầu tiên đưa ra khái niệm vốn xã hội vào năm 1916. Ông dùng khái niệm này để chỉ tình thân hữu, sự thông cảm lẫn nhau, cũng như tương tác giữa các cá nhân, hay giữa các gia đình trong đời sống xã hội. Bốn mươi năm sau, vào những năm 1960, Jane Jacobs đề cập lại khái niệm vốn xã hội trong nghiên cứu của mình (Smith và cộng sự, 2002: 153-154). Đến những năm 1980, khái niệm này được đưa vào từ điển khoa học xã hội (Fukuyama, 2002:23). Tuy nhiên, vốn xã hội chỉ thực sự trở thành khái niệm quan trọng trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn kể từ khi tác phẩm “Các hình thức của vốn” của Bourdieu được công bố (Smith và cộng sự, 2002: 154-155; Portes, 1998: 3).

Đến nay, đã có nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau về vốn xã hội (Baker, 1990; Bourdieu, 1986; Coleman, 1988; Fukuyama, 2001, 2002; Halpern, 2005; Lin, 1999, 2001; Portes, 1998; Putnam, 1995, 2000). Phân tích một cách khái quát các định nghĩa, cũng như các cách giải thích này cho thấy giữa các tác giả vừa có sự nhất trí, lại vừa có cách hiểu khác nhau về vốn xã hội. Về sự nhất trí giữa các tác giả, mặc dù mỗi người dựa trên kết quả nghiên cứu riêng của mình tại những quốc gia hay những vùng lãnh thổ khác nhau, song đại đa số họ đều gặp nhau ở những điểm sau đây.

Thứ nhất, vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội. Chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã hội tương đối bền vững (Bourdieu, 1986: 248-249), vốn xã hội nằm trong quan hệ xã hội (Coleman, 1988: 98-100), vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội (Lin, 2001: 24-25), mạng lưới xã hội là một thành tố của vốn xã hội (Putnam, 2000:

19), cần quan sát vốn xã hội thông qua mạng lưới xã hội (Portes, 1998: 8).

Thứ hai, nhiều tác giả dùng khái niệm nguồn lực để định nghĩa vốn xã hội. Nếu Bourdieu (1986: 248-249) quan niệm vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết, thì Lin (2001: 25) định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội. Trong khi đó, Baker (1990: 619) lại cho rằng vốn xã hội là nguồn lực mà

* TS. Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Email:

xhhanh@yahoo.com. Điện thoại: 04.37565776; 0985905712. Tác giả trân trọng cảm ơn PGS.TS. Mai Văn Hai (Viện Xã hội học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), PGS.TS. Hoàng Bá Thịnh và PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Hoa (Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã đọc và góp ý đối với bản thảo bài viết. Bài viết này nằm trong khuôn khổ đề tài nhóm A của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011: “Vốn xã hội trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay”.

(2)

các chủ thể hành động thu nhận được từ những cấu trúc xã hội cụ thể.

Thứ ba, vốn xã hội được tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội, hoặc mạng lưới xã hội, và các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Với Bourdieu (1986: 249), vốn xã hội là kết quả của sự đầu tư. Trong thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, kết quả đó có thể được sử dụng để chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn kinh tế. Coleman (1988: 118,101) thì khẳng định vốn xã hội là “sản phẩm phái sinh” của các hoạt động khác, thông qua mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Người ta thiết lập và duy trì những quan hệ như thế để tìm kiếm lợi ích. Theo quan điểm của Fukuyama (2002: 26), cá nhân có thể tạo ra và sử dụng vốn xã hội để phục vụ mục đích của mình.

Trong khi đó Putnam (2000: 296-306, 319-325) cho biết vốn xã hội được dùng để tìm kiếm sự thịnh vượng về kinh tế, hay thành công trong học hành. Lin (1999: 30) lại nói rõ vốn xã hội phản ánh khả năng đầu tư và lợi ích thu về. Còn Portes (1998: 9) thì khẳng định cá nhân sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích.

Thứ tư, sự tin cậy và quan hệ qua lại/sự có đi-có lại (trust and recipocity) được nhiều tác giả đề cập đến khi bàn về vốn xã hội. Bourdieu (1986: 248-249) định nghĩa vốn xã hội là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận hoặc quen biết, trong đó các thành viên tương tác qua lại với nhau. Coleman (1988: 101-108) khẳng định trách nhiệm, sự mong đợi và lòng tin là các hình thức của vốn xã hội. Chính trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo nên sự tin cẩn giữa các cá nhân. Fukuyama (2001: 7-8) quan niệm vốn xã hội gồm có chuẩn mực của sự có đi có lại, và vốn xã hội biểu thị sự tin cậy. Portes (1998: 7-8) lại nói sự trao đổi qua lại và lòng tin là những nguồn gốc của vốn xã hội. Putnam (2000: 19) quan niệm vốn xã hội gồm có các chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và sự tin cẩn.

Bên cạnh những điểm nhất trí với nhau, giữa các nhà nghiên cứu cũng có không ít cách hiểu khác nhau, thậm chí là bất đồng trong quan niệm về vốn xã hội. Trong khi có người cho rằng vốn xã hội gồm các mạng lưới xã hội (Putnam, 2000: 19) hay các khía cạnh của cấu trúc xã hội (Coleman, 1988: 98), thì những người khác lại cho đó là nguồn lực liên kết với các mạng lưới (Bourdieu, 1986: 248), hay nguồn lực nằm trong mạng lưới (Lin, 2001: 25). Cũng có người coi vốn xã hội là các chuẩn mực không chính thức (Fukuyama, 2001: 7), chuẩn mực của quan hệ trao đổi qua lại và niềm tin (Putnam, 2000: 19), hay phản ánh khả năng của các cá nhân trong việc tìm kiếm lợi ích thông qua tư cách thành viên của các mạng lưới, cấu trúc xã hội (Portes, 1998: 6-8). Quả thật, sự bất đồng hay khác biệt trong quan niệm về vốn xã hội ở đây là rất lớn.

Khái niệm vốn xã hội hiện vẫn đang được tiếp tục thảo luận, phát triển với nhiều định nghĩa, cách giải thích khác nhau, kể cả những phê phán đi kèm theo đó. Nhìn một cách tổng quát, sự khác biệt trong các quan niệm về vốn xã hội đang tạo ra cả những thuận lợi lẫn khó khăn cho việc áp dụng khái niệm này vào các nghiên cứu thực nghiệm. Về mặt thuận lợi, sự đang dạng và phong phú về định nghĩa và cách giải thích cho thấy vốn xã hội có liên quan và có thể được áp dụng nghiên cứu nhiều lĩnh cứu khác nhau của đời sống.

Chẳng hạn, Coleman (1988) sử dụng định nghĩa và cách giải thích của mình về vốn xã hội để nghiên cứu các vấn đề về giáo dục, trong khi đó Fukuyama (2000) sử dụng khái niệm này để tìm hiểu sự phát triển kinh tế, những người khác (Hendryx và cộng sự, 2002) lại

(3)

vận dụng nghiên cứu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.

Sự khác nhau trong quan niệm về vốn xã hội cũng tạo ra không ít khó khăn, nếu muốn thao tác chúng để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Chẳng hạn, trong khi Putnam (2000: 19) coi vốn xã hội bao gồm các mạng lưới xã hội thì Lin (2001: 24-25) tuyên bố vốn xã hội nằm trong/thuộc về các mạng lưới xã hội, chứ không phải là các mạng lưới xã hội. Trong khi Fukuyama (2002: 29) xem vốn xã hội như là hàng hóa tư (private good), thì Bourdieu (1986: 248-249) và Coleman (1988: 19) lại khẳng định đó là hàng hóa công (public good). Rõ ràng là, về vốn xã hội, mặc dù vô cùng lý thú và bổ ích, song đó vẫn là một thứ “trận đồ bát quái” mà người ta chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách hiểu, càng chưa dễ dàng nhất trí với nhau về cách sử dụng.

2. Vốn xã hội và tác động hai chiều của nó đến sự phát triển con người và xã hội Vốn xã hội hiện nay đang là một khái niệm mang tính thời thượng, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Người ta tìm thấy ở hiện tượng xã hội này rất nhiều ý nghĩa, kể cả về khả năng cũng như về quy mô tác động của nó đến sự phát triển con người và phát triển xã hội.

Trước hết, về khả năng tác động đến đời sống con người và xã hội, người ta thấy rằng vốn xã hội có thể giúp ích rất nhiều trong việc huy động các nguồn lực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Woolcock, 1998; Woolcock, 2001; Woolcock và cộng sự, 2000). Ở đây, các tác giả đã phân biệt hai loại vốn xã hội: vốn xã hội “co cụm” vào trong (bonding social capital) và vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài (bridging social capital). Vốn xã hội “co cụm” vào trong được quan niệm là loại vốn tồn tại bên trong các nhóm, các cộng đồng; còn vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài tồn tại trong các quan hệ giữa các cá nhân vượt ra khỏi khuôn khổ các nhóm, hay cộng đồng đồng nhất (các cá nhân ở nhóm này, cộng đồng này với các cá nhân ở nhóm khác, cộng đồng khác). Hai loại vốn này không chỉ có những đặc trưng khác nhau, mà tác động xã hội của chúng cũng không giống nhau. Nếu vốn xã hội

“co cụm” vào trong giúp giảm thiểu rủi ro, bảo vệ bí mật kinh doanh, và duy trì thực lực kinh tế đã có, thì vốn xã hội “vươn” ra bên ngoài lại có vai trò quan trọng trong việc cải thiện lợi ích vật chất, nâng cao sản lượng, lợi nhuận và giúp cho cá nhân vươn lên phía trước (Woolcock và cộng sự, 2000: 233).

Cũng bàn về vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế, Grootaert (1999) đã nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế vi mô ở một nước đang phát triển là Indonesia.

Tác giả này cho rằng vốn xã hội mang lại lợi ích lâu dài đối với các hộ gia đình, mà cụ thể là việc tiếp cận đối với dịch vụ tín dụng nhằm xóa đói, giảm nghèo và tạo ra thu nhập ổn định. Trong khi đó Guiso và cộng sự (2004) lại tiến hành nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển tài chính ở một nước phát triển là Italia. Theo các tác giả này trong những vùng có vốn xã hội cao, các hộ gia đình thường tiếp cận với hình thức tín dụng mang tính thể chế, và ít sử dụng tín dụng phi chính thức. Qua nghiên cứu ở khu vực Mỹ La tinh, Fukuyama (2002) đã giải thích rằng vốn xã hội giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ La tinh, và giúp cho nhiều người vượt ra khỏi những khó khăn trong giai đoạn suy thoái kinh tế ở khu vực này. Qua một nghiên cứu khác,

(4)

Fukuyama (2001) khẳng định vốn xã hội là những chuẩn mực không chính thức thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân. Theo ông, trong các hoạt động kinh tế, mỗi cá nhân sẽ giảm được nhiều chi phí giao dịch nhờ vào vốn xã hội giữa họ.

Vốn xã hội cũng có thể góp phần vào việc phát triển vốn con người, nhất là đối với thế hệ trẻ. Minh chứng cho nhận định này là công trình nghiên cứu “Vốn xã hội trong việc tạo ra vốn con người” của Coleman (1988). Trong công trình này, Coleman đã trình bày những phát hiện của ông về tỷ lệ bỏ học của học sinh trong mối quan hệ với vốn xã hội trong gia đình. Từ đó Coleman chỉ ra rằng vốn xã hội của các bậc cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến thành tích học tập của con cái họ. Vai trò của vốn xã hội trong việc hình thành vốn con người còn được thể hiện qua kiểm soát xã hội. Dựa vào dữ liệu từ nghiên cứu của Zhou và Bankston về cộng đồng liên kết chặt của người Việt Nam định cư ở New Orleans (Hoa Kỳ), nhà xã hội học Portes (1998) cũng cho rằng nhờ có vốn xã hội trong cộng đồng người Việt ở đây nên việc học tập của con cái họ được kiểm soát hiệu quả.

Nói đến những tác động của vốn xã hội, các nhà nghiên cứu cũng không quên vai trò quan trọng của nó trong việc hình thành và phát triển xã hội dân sự. Theo Fukuyama (2002) vốn xã hội đóng vai trò thiết yếu đối với nền dân chủ, mà xã hội dân sự thì đi liền với nền dân chủ. Dựa vào vốn xã hội, các cá nhân tập hợp lại với nhau để hỗ trợ những nhu cầu tập thể, và cỗ vũ sự phân quyền trong xã hội. Trong khi đó Putnam (1995, 2000) chỉ ra rằng vốn xã hội mang sẵn trong nó hàng loạt các thuộc tính giúp cho xã hội vận hành hài hòa và trôi chảy, đó là tăng cường các chuẩn mực, làm đơn giản hóa sự hợp tác, cung cấp khuôn mẫu cho sự hợp tác, từ đó mang lại các giải pháp cho những tình huống khó khăn của các hành động tập thể. Qua nghiên cứu, Putnam rút ra nhận xét là: vốn xã hội không chỉ giúp nâng cao học vấn, cải thiện điều kiện chăm sóc trẻ em, nó còn mang lại sự an toàn cho cộng đồng và tạo ra hạnh phúc cho các thành viên cộng đồng. Cũng theo nhà nghiên cứu này, vốn xã hội biểu thị sự cam kết công dân và là công cụ hướng tới sự thịnh vượng chung.

Tuy nhiên, vốn xã hội cũng có mặt trái của nó. Theo nhà xã hội học Portes (1998: 15- 17) vốn xã hội chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực. Thứ nhất, vốn xã hội mang lại cố kết bên trong nhóm, tuy nhiên, những cố kết như thế lại ngăn cản sự tham gia của những người bên ngoài. Thứ hai, vốn xã hội trong các cộng đồng và nhóm khép kín có thể ngăn cản sự thành công trong kinh doanh của các thành viên. Thứ ba, với những ràng buộc do nó tạo nên, vốn xã hội hạn chế tự do cá nhân của các thành viên. Thứ tư, với đặc tính liên kết, trong nhiều tình huống, sự thành công của cá nhân làm xói mòn cố kết nhóm.

Bổ sung vào danh sách liệt kê này, Fukuyama (2002: 27-28) còn cho rằng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng, mặc dù tạo ra sự trợ giúp hiệu quả cho cá nhân hoặc doanh nghiệp trong những thời điểm kinh tế khó khăn; song do những hệ quả tiêu cực kéo theo như sự thiếu tin cậy đối với người xa lạ, nên gây ra khó khăn khi mà các doanh nghiệp lớn mạnh, phát triển lên. Cũng trên tinh thần đó, Putnam còn cho rằng vốn xã hội có thể tạo ra bè phái và tham nhũng (trích theo Smith và cộng sự, 2002: 173). Nói tóm lại, bên cạnh những tác động tích cực, vốn xã hội cũng tạo ra những hệ quả tiêu cực đối với sự phát triển con người và xã hội. Người ta gọi đó là bản chất hai mặt của vốn xã hội.

(5)

3. Nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam và mấy vấn đề đặt ra

Có thể chia các nghiên cứu đã có về vốn xã hội ở Việt Nam thành hai nhóm: nhóm giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội, và nhóm vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên cứu thực tiễn. Về hướng nghiên cứu thứ nhất, nổi bật nhất là Trần Hữu Dũng (2003) với bài viết “Vốn xã hội và kinh tế”. Trần Hữu Dũng đã lược duyệt và đánh giá một số quan niệm khác nhau về vốn xã hội của Pierre Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam, Francis Fukuyama, Hernando de Soto. Ông cho rằng cần phải làm rõ hơn đặc điểm của vốn xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác. Trong một bài viết khác với tên gọi: “Vốn xã hội và phát triển kinh tế” (Trần Hữu Dũng, 2006), tác giả này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, vốn xã hội và chính sách kinh tế. Bằng cách điểm lại các luận điểm đã có, Trần Hữu Dũng nhấn mạnh rằng vốn xã hội giúp tiết kiệm phí giao dịch, nâng cao mức đầu tư. Ông cũng cho biết vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và tốc độ tích lũy vốn con người.

Tiếp đến là Trần Hữu Quang (2006b) với bài viết “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội”.

Trong bài viết này Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã hội của nhiều tác giả nước ngoài như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn mạnh rằng “vốn xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa con người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội” (Trần Hữu Quang, 2006b: 4). Theo Trần Hữu Quang thì cần bàn về vốn xã hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự cố kết, và hợp tác. Ông lưu ý đến việc phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóa-xã hội và các định chế xã hội. Bàn về vốn xã hội còn có thêm các tác giả khác như Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh. Lê Ngọc Hùng (2008) giới thiệu khái quát lí thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh (2009) tập trung phân tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội.

Có thể điểm thêm một số bài viết như: “Vốn xã hội và phát triển” (Nguyễn Ngọc Bích, 2006), “Vốn và vốn xã hội” (Nguyễn Quang A, 2006), “Vốn xã hội ở Việt Nam”

(Nguyễn Vạn Phú, 2006), “Phát huy dân chủ để làm giàu vốn xã hội” (Phan Đình Diệu, 2006), “Lòng tin trong xã hội và vốn xã hội” (Trần Hữu Quang, 2006a), “Lời giải cho bài toán phát huy vốn xã hội” (Phan Chánh Dưỡng, 2006), vv...Tuy nhiên, các bài viết này vẫn chỉ dừng lại ở việc giới thiệu và bàn luận về lý luận chung chứ chưa tạo nên được luận điểm lý thuyết cụ thể làm cơ sở cho các nghiên cứu thực nghiệm.

Về hướng nghiên cứu thứ hai, tức là hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội.

Với hướng nghiên cứu này Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra vai trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết vốn xã hội có vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp (Appold và cộng sự, 2004).

Nghiên cứu “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam” của Lê Ngọc Hùng (2008) bàn về các quan niệm khác nhau về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến mô hình tổng hợp về vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội. Trên cơ sở đó, ông bàn thêm về kết quả của một số nghiên cứu cụ thể trên các phương diện: mạng lưới xã hội của người lao động, mạng thông tin của doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của

(6)

các loại vốn trong xóa đói, giảm nghèo.

Cũng về hướng nghiên cứu thực nghiệm, Fleur Thomése và Nguyễn Tuấn Anh (2007) đã vận dụng quan điểm vốn xã hội để nghiên cứu hiện tượng dồn điền đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp ở một làng Bắc Trung Bộ. Các tác giả đã chứng minh rằng chính nhờ vào nguồn vốn xã hội nên các hộ nông dân có thể tiến hành dồn điền, đổi thửa một cách thuận lợi mà không cần các thứ giấy tờ hay quan hệ mang tính pháp lý nào. Nói cách khác, vốn xã hội là một trong những yếu tố quan trọng giúp quá trình sản xuất nông nghiệp được linh hoạt, hiệu quả hơn. Gần đây, Nguyễn Tuấn Anh (2010) có thêm nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội trong khu vực nông thôn Bắc Trung Bộ. Với nghiên cứu này tác giả chỉ ra rằng người nông dân đã sử dụng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng để theo đuổi các lợi ích kinh tế liên quan đến sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công, và hoạt động tín dụng. Ngoài ra, Nguyễn Tuấn Anh cũng làm rõ vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng đối với việc tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ trẻ em đến trường, tức là góp phần tạo ra vốn con người.

Nhìn chung ở Việt Nam hiện nay, vốn xã hội không chỉ là một chủ đề mới mẻ, mà còn rất hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu, nhất là đối với các nhà nhân học, kinh tế học và xã hội học. Tuy nhiên, qua các nghiên cứu đã có, đang nổi lên một số vấn đề cần được lưu ý sau đây:

Về mặt lý luận: Nhìn chung, các nghiên cứu lý luận về vốn xã hội ở Việt Nam vẫn còn khá khiêm tốn. Chúng ta chỉ mới giới thiệu được một số quan điểm lý thuyết và khuynh hướng nghiên cứu chính của các tác giả nước ngoài. Vì vậy, một trong những vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải xây dựng những quan điểm lý thuyết mới, khái quát hóa từ thực tiễn của việc tạo dựng, duy trì và sử dựng vốn xã hội ở Việt Nam, kể cả trong quá khứ cũng như trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và toàn cầu hóa hiện nay. Những luận điểm lý thuyết mới như vậy không chỉ soi đường cho các nghiên cứu thực nghiệm, mà quan trọng hơn nó còn giúp rất nhiều cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách trong việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những biểu hiện tiêu cực kéo theo của vốn xã hội trong việc chỉ đạo thực tiễn, cũng như trong việc xây dựng các dự án phát triển con người và xã hội ở Việt Nam trong thời gian sắp tới.

Về mặt lịch sử: Chúng ta đều biết, mặc dù khái niệm vốn xã hội được du nhập vào nước ta chưa lâu, nhưng các nghiên cứu về nhân học, dân tộc học, văn hóa dân gian chỉ ra rằng trong các làng xã Việt Nam thường tồn tại nhiều hình thức tổ chức xã hội như dòng họ, hội, phường, phe, giáp... Trong các tổ chức này ẩn chứa nhiều nguồn vốn xã hội quan trọng. Và, từ trong đời sống cộng đồng, người ta đã biết khai thác, sử dụng các nguồn lực này để hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau không chỉ trong sản xuất và kinh doanh, mà còn trong tất cả các giai đoạn khác nhau trong chu trình đời người như sinh nở, cưới xin, tang ma, giỗ tết. Có thể nói, môi trường xã hội đặc thù ở Việt Nam đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và vận hành của vốn xã hội. Cho nên, cùng với việc đưa ra các quan điểm lý thuyết mới, chúng ta cũng rất cần có những nghiên cứu về lịch sử vốn xã hội ở Việt Nam.

Công việc này không chỉ có ý nghĩa “ôn cố tri tân”, mà còn là sự đóng góp những nét đặc thù và độc đáo của Việt Nam vào sự hiểu biết chung về vốn xã hội trên phạm vi toàn thế

(7)

giới.

Về nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng: Phải nói rằng, những nghiên cứu thực nghiệm và ứng dụng về vốn xã hội ở nước ta, cho đến nay, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi động. Chúng ta chỉ mới có những nghiên cứu về vốn xã hội ở một số doanh nghiệp ở khu vực đô thị, hoặc ở vài ba cộng đồng làng xã ở khu vực nông thôn. Thế nhưng, trong đời sống thực tiễn, việc tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội lại đang diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi. Chưa nói đâu xa, chỉ tính từ sau năm 1986 đến nay, các tầng lớp cư dân ở ta đã vô cùng sáng tạo trong việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn xã hội nhằm thích ứng và phát triển kinh tế hộ gia đình trong điều kiện của xã hội đang chuyển đổi. Chẳng hạn, đó là việc dồn điền đổi thửa và tích tụ ruộng đất ở nông thôn, việc mở rộng các mạng lưới thủ công nghiệp và doanh nghiệp ở đô thị, việc thiết lập các hội bảo thọ và khuyến học, việc mở rộng dịch vụ tín dụng và xóa đói giảm nghèo, vv... Rõ ràng, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn đời sống ở ta đang tồn tại một khoảng cách, do đó, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tời là phải lấp dần khoảng cách đó.

Về bản chất hai mặt của vốn xã hội: Có thế nói, ở bất cứ quốc gia nào, dân tộc nào, vốn xã hội cũng được coi là một nguồn vốn quý, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn con người, vốn văn hóa, vv... Nhưng, như đã nói, bên cạnh những tác động tích cực, vốn xã hội cũng có thể kéo theo nó những biểu hiện tiêu cực đối với con người và xã hội. Tuy nhiên, nhìn lại các nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam, nhất là trong các nghiên cứu thực nghiệm, ta thấy trong khi tập trung khai thác mặt tích cực, các nhà khoa học thường bỏ qua hoặc xem nhẹ những biểu hiện tiêu cực của nó. Điều này dễ gây ngộ nhận, rằng vốn xã hội giống như một thứ “bảo bối” thần kỳ đem lại toàn những điều tốt đẹp. Cho nên, một vấn đề nữa cần phải đặt ra là, trong nghiên cứu chúng ta không được né tránh, và cũng không nên xem nhẹ mặt nào, mà phải mô tả và phản ánh về vốn xã hội đúng như nó đang diễn ra trong cuộc sống. Chỉ có như vậy, khi trở lại thực tiễn, chúng ta mới có thể nói khai thác và sử dụng vốn xã hội một cách tối ưu, mà không sợ rơi vào những sai lầm đáng tiếc.

Tài liệu trích dẫn

Nguyễn Quang A. 2006. Vốn và vốn xã hội. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1776&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Nguyễn Tuấn Anh. 2010. Kinship as Social Capital: Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship Relations in a Northern Vietnamese Village.

Doctoral dissertation.Vrije Universiteit Amsterdam, The Netherlands. ISBN/EAN:

978-90-5335-271-7. 278 pages, 2010.

Nguyễn Ngọc Bích. 2006. Vốn Xã hội và phát triển. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1774&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

(8)

Phan Đình Diệu. 2006. Phát huy dân chủ để làm giàu nguồn Vốn xã hội. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1826&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Trần Hữu Dũng. 2003. Vốn Xã hội và Kinh tế. Thời Đại, số 8, 82-102.

Trần Hữu Dũng. 2006. Vốn xã hội và phát triển kinh tế. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1809&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Phan Chánh Dưỡng. 2006. Lời giải cho bài toán phát huy vốn xã hội. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1819&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Lê Ngọc Hùng. 2008. Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3, 45-54.

Nguyễn Vạn Phú. 2006. Vốn xã hội ở Việt Nam. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1771&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Trần Hữu Quang. 2006a. Lòng tin trong xã hội và vốn xã hội. Truy cập từ http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=87&News=1817&CategoryID=1 6 (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011).

Trần Hữu Quang. 2006b. Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội. Tạp chí Khoa học xã hội, số 7, 74-81.

Hoàng Bá Thịnh. 2009. Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn. Tạp chí Xã hội học, số 1, 42-51.

Appold, J. Stephen; Nguyễn Qúy Thanh. 2004. The Prevalence and Costs of Social Capital among Small Businesses in Vietnam. Annual meeting of the American Sociological Association, American Sociological Association. San Francisco, August 14-17, 2004.

Baker, E. Wayne. 1990. Market Networks and Coporate Behavior. American Journal of Sociology, No.3, 589-625.

Bourdieu, Pierre. 1986. The Forms of Capital. Trong sách Handbook of Theory and Research for the Sociology of Education, Chủ biên: John G. Richardson. NXB Greenwood, New York, 241-258.

Coleman, S. James. 1988. Social Capital in the Creation of Human-Capital. American Journal of Sociology, Vol.94, 95-120.

Fukuyama, Francis. 2001. Social Capital, Civil Society and Development. Third World Quarterly, No.1, 7-20.

Fukuyama, Francis. 2002. Social Capital and Development: The Coming Agenda. SAIS Review, No.1, 23-38.

Grootaert, Christiaan. 1999. Social capital, household welfare and poverty in Indonesia.

(9)

The World Bank Social Development Department. Washington.

Guiso, Luigi; Sapienza, Paola và Zingales, Luigi. 2004. The Role of Social Capital in Financial Development. The American Economic Review, No.3, 526-556.

Halpern, David. 2005. Social Capital. Polity Press. Cambridge.

Hendryx, S. Michael; Ahern, M. Melissa; Lovrich, P. Nicholas và McCurdy, H. Arthur.

2002. Access to Health Care and Community Social Capital. Health Services Research, No.1, 85–101.

Lin, Nan. 1999. Building a Network Theory of Social Capital. Connections, No.1, 28-51.

Lin, Nan. 2001. Social Capital: A Theory of Social Structure and Action. Cambridge University Press. Cambridge.

Portes,Alejandro. 1998. Social Capital: Its Origins and Applications in Modern Sociology.

Annual Review of Sociology, Vol.24, 1-24.

Putnam, D. Robert. 1995. Bowling Alone: America's Declining Social Capital. Journal of Democracy, No.1, 65-78.

Putnam, D. Robert. 2000. Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community. Simon & Schuster. New York.

Smith, S. Smith và Kulynch, Jessica. 2002. It May Be Social, but Why Is It Capital? The Social Construction of Social Capital and the Politics of Language. Politics &

Society, No.1, 149-186.

Thomése, Fleur và Nguyễn Tuấn Anh. 2007. Quan hệ họ hàng với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một làng Bắc Trung Bộ. Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 4, 3-16.

Woolcock, Michael. 1998. Social Capital and Economic Development: Toward a Theoretical Synthesis and Policy Framework. Theory and Society, No.2, 151-208.

Woolcock, Michael. 2001. The Place of Social Capital in Understanding Social and Economic Outcomes. ISUMA Canadian Journal of Policy Research, No.1, 11-17.

Woolcock, Michael và Narayan, Deepa. 2000. Social Capital: Implications for Development Theory, Research, and Policy. The World Bank Research Observer, No.2, 225-249.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Khi míi x¸c lËp quan hÖ víi nhau, hä qua ®ªm ë nhµ nhau vµo dÞp cuèi tuÇn, vµ kh«ng nãi cho con c¸i m×nh biÕt vÒ quan hÖ thËt víi nhau, mµ chØ giíi thiÖu nhau víi

Chưa nói đến gánh nặng tâm lý nghề nghiệp mà người công nhân quét rác thuộc công ty Vệ sinh môi trường đô thị phải gánh chịu, chỉ riêng việc phải thường xuyên tiếp

Chỉ báo cơ động đi xuống trong trường hợp này cũng lớn hơn, song tính cơ động đi xuống không phải là tích cực xét theo quan điểm xã hội, vì thế sẽ tốt hơn nếu

Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của xã hội học thực nghiệm thường ở phạm vi nhỏ, hẹp, quan tâm đến một số lĩnh vực nhất định đã và đang thu hút sự chú ý trong

Hội thảo là diễn đàn để các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nghiên cứu và những người hoạch định và thực thi chính sách quan tâm, chia sẻ, thảo luận các vấn đề lý

Thuật ngữ dư luận xã hội hình thành từ hai từ puhlic (cộng đồng) và opinion (ý kiến). Người ta cho rằng nhà văn, nhà hoạt động xã hội người Anh jonxonheri là

Việc ban hành "Quy chế dân chủ cơ sở" (1998) là một bƣớc tiến quan trọng nhằm trao cho ngƣời dân quyền làm chủ thực sự, và đƣợc thể hiện ở bốn phƣơng châm

Chúng ta không còn băn khoăn, lo lắng khi thấy sự xuất hiện của một số ngƣời giàu có, thành đạt từ chính trong những ngƣời trƣớc đó đồng giai cấp, tầng lớp với