• Không có kết quả nào được tìm thấy

NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY QUA TIẾP CẬN PHỔ QUÁT CÁC HỆ GIÁ TRỊ VÀ GIÁ TRỊ CỐT LÕI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY QUA TIẾP CẬN PHỔ QUÁT CÁC HỆ GIÁ TRỊ VÀ GIÁ TRỊ CỐT LÕI "

Copied!
7
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY QUA TIẾP CẬN PHỔ QUÁT CÁC HỆ GIÁ TRỊ VÀ GIÁ TRỊ CỐT LÕI

PHAN TÂN*

Đặt vấn đề

Giá trị xã hội quy định hành động xã hội, do vậy, mỗi hành động xã hội được đánh giá, phán xét trên cơ sở giá trị, từ đó định hướng, hoặc điều chỉnh hành động. Các giá trị cũng không bất biến, mà có thể thay đổi phù hợp với sự phát triển nhận thức xã hội - thời đại.

Hệ giá trị được hiểu là tổng hòa các quan niệm sống của một cộng đồng, mà đa số thành viên cộng đồng chấp nhận và tuân thủ. Hệ giá trị có chức năng định hướng cho những suy nghĩ, hành động của mỗi cá nhân trong cộng đồng.

Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam đã tiếp cận giá trị theo nhiều chiều cạnh khác nhau: đạo đức, văn hoá, xã hội, kinh tế, hay theo góc độ giá trị vật thể, giá trị phi vật thể; giá trị hữu hình, giá trị vô hình... Có nghiên cứu đã tiếp cận hệ thống các giá trị đặc trưng của người Việt như: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa (Trần Văn Giàu, 2011). Cũng có những ý kiến muốn xây dựng một hệ giá trị chung của người Việt Nam hiện nay theo nguyên tắc triết học giữa cái chung và cái riêng: giá trị chung toàn nhân loại, giá trị toàn cầu, giá trị dân tộc, giá trị gia đình, giá trị bản thân (Phạm Minh Hạc, 2011).

Với một tiếp cận riêng, Hồ Sĩ Quý (2005) đi từ các giá trị châu Á, với các thang bậc như: hiếu học, cần cù, cộng đồng, huyết tộc... mang dấu ấn Nho giáo ngay trong xu thế toàn cầu hóa. Với Việt Nam, ông nhấn mạnh tính cộng đồng - "một giá trị căn bản trong toàn bộ văn hóa nhân cách Việt Nam" (Hồ Sĩ Quý, 2005: 185).

Trên cơ sở tiếp cận hệ giá trị - mục tiêu phổ quát cho Việt Nam hiện nay: độc lập, tự do, hạnh phúc - dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chúng tôi hướng tới nghiên cứu vai trò, chức năng của dư luận xã hội trong việc định hướng xã hội đến những giá trị - mục tiêu phổ quát nói trên.

1. Hệ giá trị và mục tiêu của Việt Nam hiện nay

Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, ý chí độc lập, tự do, hạnh phúc đã đi vào tiềm thức - tâm thức dân tộc và của mỗi người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, với sự phát triển của dân tộc trong xu thế hội nhập, các giá trị mang tính mục tiêu cho phát triển

* TS, Viện Thông tin Khoa học xã hội. Bài viết được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED).

(2)

như: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh cũng từng bước được phát triển hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn2.

Có thể phân chia hệ giá trị nêu trên thành 2 nhóm: Các giá trị trung tâm bản thể (như: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc) và các giá trị phát triển nội tại (Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh). Để bảo vệ các giá trị Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, người Việt đã xem đoàn kết, nhất trí là tiêu chuẩn tối thượng mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm. Nó là nguồn sức mạnh nội sinh của đất nước, chống lại sự đồng hoá văn hoá, bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc qua hàng ngàn năm dưới ách thống trị của các thế lực bên ngoài.

Để phát triển phù hợp với thời đại, hội nhập quốc tế sâu rộng, bảo đảm quyền con người, quyền dân tộc, các giá trị nội tại Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh được phát triển và được từng cá nhân, cộng đồng, xã hội tiếp nhận, các tổ chức và định chế quốc tế ủng hộ và theo dõi.

2. Hệ giá trị và giá trị cốt lõi định hướng dư luận xã hội ở Việt Nam

Tích hợp các quan niệm về dư luận xã hội, chúng tôi cho rằng: Dư luận xã hội là phức hợp ý kiến thảo luận, phản tư, đánh giá, kiến nghị, yêu sách, giải pháp của các nhóm xã hội về những vấn đề xã hội xảy ra liên quan đến lợi ích và giá trị quan tâm.

Vậy, dư luận xã hội thảo luận, phản tư, đánh giá, kiến nghị, yêu sách, giải pháp hệ giá trị của dân tộc Việt Nam như thế nào?

Trong thực tiễn đời sống xã hội, các hệ giá trị trên đan cài, biện chứng lẫn nhau.

Hạnh phúc là khi con người được thưởng thức và giữ gìn cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thoã mãn. Tuy nhiên, khi chưa có tự do theo mong muốn thì chưa thể có hạnh phúc. Văn minh là mục tiêu nhằm tạo dựng một môi trường tốt nhất cho phát triển con người; dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh văn minh tiến bộ của xã hội.

Công bằng là một trong những tiêu chí quan trọng bậc nhất để phân định chế độ xã hội, để đánh giá chế độ xã hội độc tài hay dân chủ. Trên cơ sở sự đan cài biện chứng giữa các giá trị, cần nhấn mạnh đến một số giá trị cốt lõi chi phối đến toàn bộ hoạt động xã hội, tác động đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin công chúng. Các giá trị này ở tầm vĩ mô, định hướng cơ bản cho tinh thần dân tộc, nhưng lại có mặt ở hầu hết những hoạt động vi mô.

Mỗi hành động xã hội nhân danh các giá trị này đều được dư luận xã hội phán xét, đánh giá rất mạnh mẽ và có tác động lên đời sống của các nhóm xã hội.

Độc lập là hệ quả của một quá trình đấu tranh cách mạng, nhưng cũng dễ bị can thiệp trong thời hiện đại. Độc lập dân tộc là một trạng thái "tối ưu” tồn tại trên lý thuyết.

Còn trong thời hiện đại, khi quá trình toàn cầu hoá lan rộng trên phạm vi toàn thế giới, các quốc gia không thể bị biệt lập, chỉ theo đuổi lợi ích quốc gia mình mà không tính tới lợi ích của nước khác. Truyền thông thông tin toàn cầu, hoạt động doanh thương quốc

2 Đến thời đại Hồ Chí Minh (thời đại bắt đầu của nước Việt Nam mới, tạm tính từ 1945 đến nay) các hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc và Dân giàu - Nước mạnh - Dân chủ - Công bằng - Văn minh, mỗi giá trị, mỗi mục tiêu phát triển mới từng bước được phát triển về mặt lý luận và thừa nhận chính danh.

(3)

tế, sự tham gia các định chế của Liên Hợp Quốc... đã tạo ra những cái nhìn đa chiều về tính độc lập hay giá trị độc lập; đóng cửa hoặc mở cửa, hợp tác hoặc không hợp tác; tự nguyện hoặc cưỡng bức... Các lựa chọn này đều được công chúng đưa ra ý kiến phán xét, đánh giá.

Cùng với giá trị độc lập, giá trị tự do phải được gắn liền với độc lập. Nhưng tự do không chỉ là dân tộc tự do mà còn là dân quyền tự do; con người có thể được phát triển hết năng lực vốn có của mình thì mới có nghĩa trọn vẹn. Trong xã hội hiện đại, tự do đã không còn chỉ được hiểu theo nghĩa truyền thống là tự do cho tập thể, cho quốc gia mà là tự do cho cá nhân, tự do cho mỗi con người. Nhưng tự do không bao giờ là tuyệt đối bởi mỗi cá nhân con người luôn bị chế ước và kiểm soát bởi những luật lệ, những quy định cho phép hoặc/và không cho phép. Quy ước "công chức được làm những gì nhà nước cho phép, người dân được làm những gì nhà nước không cấm" chính là một khuôn mẫu cho các trần về tự do.

Dân giàu - Nước mạnh là cặp phạm trù chỉ giá trị về sự thịnh vượng của quốc gia, song việc lượng hoá nó cho mục tiêu cần đạt sẽ thường xuyên được thay đổi theo thời gian và theo thiết chế, định chế xã hội đánh giá.

Khi mục tiêu này được lượng hóa, được triển khai cụ thể đến từng tiêu chí và đi vào cuộc sống sẽ không tránh khỏi những ý kiến phản biện, trái chiều từ người dân. Lý do có thể tìm thấy ở sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo gia tăng trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường đầy đủ, và theo định hướng xã hội chủ nghĩa đủ ở nước ta hiện nay. Khoảng cách giàu - nghèo ngày càng giãn rộng, bất bình đẳng xã hội gia tăng là những vấn đề xã hội hiện đang song hành cùng với quá trình đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh.

Trong hệ mục tiêu phát triển, giá trị dân chủ được công chúng bàn luận nhiều nhất (Phan Tân, 2011: 50). Đây có thể xem là giá trị cốt lõi của hệ giá trị - mục tiêu Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh. Ở đây, dân chủ là biết lắng nghe lẫn nhau, đưa ra những giải pháp thông qua thương thuyết, ngay cả khi đa số có thể dùng sức mạnh để áp đặt các quy định mà nhóm thiểu số phản đối. Ðộng lực dân chủ biểu hiện ngày càng rõ ở chính trị, khi quyền lực và ý chí của nhân dân được thực hiện thông qua dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện với cơ chế bầu cử dân chủ, với thể chế rõ ràng, công khai, minh bạch. Một khi tiếng nói của người dân được tôn trọng, họ không chỉ là người thụ hưởng lợi ích mà còn là chủ thể tham gia xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách, giám sát và kiểm tra việc thực hiện chính sách cũng như hoạt động của các cơ quan công quyền.

Môi trường xã hội dân chủ sẽ làm hình thành dư luận xã hội tích cực, thúc đẩy hành động sáng tạo của quần chúng.

Với mỗi cá nhân, dân chủ là động lực và phương tiện để hình thành nhân cách trung thực và sáng tạo. Trong chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ, phát hiện và trọng dụng nhân tài, nếu quần chúng được tham gia giám sát, tiến cử hoặc bỏ phiếu bầu chọn một cách dân chủ, thì chắc chắn chính sách cán bộ sẽ có hiệu quả cao.

(4)

3. Giá trị Dân chủ trong hoạt động thực tiễn và vai trò, chức năng của dư luận xã hội hiện nay

Việc ban hành "Quy chế dân chủ cơ sở" (1998) là một bước tiến quan trọng nhằm trao cho người dân quyền làm chủ thực sự, và được thể hiện ở bốn phương châm hành động: Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra. Bốn phương châm này có mối liên hệ biện chứng và phù hợp với con đường hình thành dư luận xã hội và vai trò, chức năng của dư luận xã hội.

- Dân biết nghĩa là thông tin phải công khai, minh bạch về mọi sự kiện, vấn đề xã hội đang diễn ra, là các cá nhân và cộng đồng phải được tiếp cận, trực tiếp chứng kiến hoặc được thông tin lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong xã hội.

Người dân có quyền được cung cấp thông tin để đánh giá tình hình và biểu thị thái độ của họ trong quá trình hình thành dư luận xã hội. Việc cung cấp thông tin nhằm thực hiện tính công khai, và chỉ bằng cách đó, dư luận xã hội mới phản ánh đúng tình trạng xã hội về những vấn đề đang được người dân quan tâm.

- Dân bàn tức là người dân được công khai thảo luận, trao đổi tìm ý kiến chung nhất; các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong cộng đồng và các nhóm xã hội.

Dư luận xã hội phản ánh ý kiến của số đông. Sự bàn bạc, thảo luận sẽ giữ lại và nhấn mạnh cái phổ biến, cái chủ yếu, hình thành nên ý kiến chung, thể hiện mối quan tâm chung của người dân về hiện tượng, sự việc.

Hoạt động phản biện mà các tổ chức chính trị xã hội, tiêu biểu là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là hình thức "dân bàn” chính thức trong các hoạt động phản biện, góp phần tạo ra sự đồng thuận xã hội cho phát triển. Tiếng nói phản biện càng mạnh mẽ thì sẽ tăng khả năng giám sát, ngăn chặn các hành vi tiêu cực của cơ quan công quyền cũng như các cá nhân, tổ chức liên quan khác.

- Dân làm là bước thể hiện sự đánh giá của dư luận xã hội đi vào hoạt động thực tiễn. Ở đây, vấn đề "lời nói đi đôi với việc làm" có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu các chủ trương, chính sách đề ra là đúng, nhưng không được áp dụng vào thực tế, không thông qua các việc làm cụ thể, các hành động phù hợp với nó, tức là "nói mà không làm" hoặc

"nói một đường, làm một nẻo", thì không thể tạo nên hiệu quả xã hội như người ta mong muốn.

- Dân kiểm tra là kết quả của dư luận xã hội, song song với hành động thực tiễn.

Do dư luận xã hội được hình thành dưới tác động của các giá trị và các chuẩn mực xã hội, và đến lượt nó, khi đã hình thành, dư luận xã hội lại có tác động đến các chuẩn mực, các giá trị xã hội... Dư luận xã hội cũng có thể kiểm soát một cách không chính thức bộ máy Nhà nước và các cán bộ của bộ máy nhà nước về sự thượng tôn lợi ích tập thể, lợi ích quốc gia, lợi ích của người dân.

Chức năng kiểm soát của dư luận xã hội có ý nghĩa rất tích cực. Bất kỳ một hành động xã hội nào cũng đều được kiểm tra, giám sát cho đến kết quả cuối cùng. Dư luận xã

(5)

hội cũng sẽ ủng hộ với những hành vi phù hợp chuẩn mực, đúng đắn và lên án những sự vi phạm chuẩn mực.

4. Bảo đảm hệ giá trị mục tiêu phát triển và định hướng dư luận xã hội

Một trong những nguyên nhân của xung đột xã hội là có sự khác biệt trong nhận thức, hành vi bảo vệ các giá trị và lợi ích của các nhóm khác nhau. Vai trò, chức năng của dư luận xã hội phủ khắp mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ xã hội. Nó tham gia thảo luận, đánh giá, đồng thời huy động hành động thực tiễn của quần chúng trong việc bảo vệ các giá trị và lợi ích hợp pháp và chính đáng của các cá nhân, cộng đồng và xã hội.

Hiện nay đang tồn tại nhiều song đề (dilemma), chẳng hạn, đó là các quan điểm mâu thuẫn nhau như:

1) Quan điểm độc lập cực đoan, kiểu chủ nghĩa dân tộc, hạn chế hợp tác bên ngoài, mâu thuẫn với quan điểm mở rộng hội nhập, phát triển, thừa nhận biên giới mềm.

2) Quan điểm tự do tuyệt đối, mâu thuẫn với quan điểm tự do trong khuôn khổ pháp luật để giữ sự ổn định.

3) Quan điểm đạt được sự thịnh vượng quốc gia phải ưu tiên tăng trưởng nhanh, mâu thuẫn với quan điểm phát triển bền vững hài hoà giữa tăng trưởng và phát triển bền vững.

4) Quan điểm thực hành dân chủ từng bước, giữ vững ổn định, dân chủ có kiểm soát mâu thuẫn với dân chủ trên tất cả các mặt, đặc biệt là tự do ngôn luận.

Vấn đề đặt ra là cần xử lý được các mâu thuẫn đó gắn với giải quyết các lợi ích cá nhân, nhóm, cộng đồng. Dư luận xã hội, định hướng dư luận xã hội chính là từng bước điều hòa các mâu thuẫn, dung hòa các quan điểm, hướng tới giải pháp "hoà hợp".

Nhận thức được vai trò của dư luận xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi việc hiểu được lòng dân (tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân) là công việc quan trọng hàng đầu trong hoạch định đường lối chính sách của Đảng. Nhiều văn kiện chính sách của Đảng đã khẳng định vai trò của công tác nghiên cứu dư luận xã hội. Ngay từ những năm đầu Đổi mới, và đặc biệt là thời gian gần đây, Đảng đã chỉ đạo tăng cường công tác điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã yêu cầu “Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền, coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội”.

Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương (Khóa VII) về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam yêu cầu: “Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu dân ý”. Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, tiếp tục nhấn mạnh: "Chú trọng công tác nghiên cứu, điều tra xã hội học, nắm bắt dư luận xã hội phục vụ công tác tư tưởng". Gần đây nhất, để triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 08-KH/TW ngày 12/03/2012, trong đó chỉ đạo "Đổi mới và nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội, tập hợp ý kiến của

(6)

cán bộ, đảng viên và nhân dân để tham khảo trước khi ra quyết định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước".

Về phía Chính phủ, năm 2005, trong Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010, ban hành kèm theo Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, một trong các chiến lược được đề cập là "Hoàn thiện phương thức và cơ chế phối hợp để xử lý có hiệu quả thông tin phản hồi của nhân dân đóng góp, phản ánh với Đảng và Nhà nước;

nâng cao chất lượng điều tra dư luận xã hội; tăng cường hệ thống thông tin đối ngoại, chủ động đấu tranh với quan điểm sai trái, thù địch".

Tuy nhiên, trên thực tế, việc nắm bắt dư luận xã hội phục vụ cho hoạt động của các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước còn nhiều bất cập. Người dân trong cộng đồng còn e ngại dư luận, không ít cán bộ công quyền cũng né tránh dư luận xã hội. Vì vậy, vấn đề quan trọng là cần phải có những khung pháp luật cho hoạt động này, mà trước hết là bộ Luật về Trưng cầu dân ý. Đó sẽ là cơ sở pháp lý cho nghiên cứu dư luận xã hội, đồng thời khẳng định quyền phúc quyết của mọi công dân trong Hiến pháp.

Dư luận đánh giá, bảo vệ và phát triển các giá trị; dư luận đánh giá, bảo vệ và đảm bảo sự công bằng và điều hòa lợi ích mà người dân kỳ vọng. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, để bảo đảm môi trường xã hội lành mạnh, trong đó dư luận xã hội thực sự phát huy vai trò, chức năng của nó, cần chú ý một số vấn đề sau:

1) Xác định giới hạn, nguyên tắc, quy tắc quan hệ giữa nhà nước với nhân dân;

trong đó đặc biệt chú trọng minh bạch và công khai hóa các thủ tục hành chính, các cơ chế, chính sách nói chung; tạo cơ chế hữu hiệu cho người dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và giám sát hoạt động của nhà nước; tự do ngôn luận theo pháp luật và tôn trọng dư luận xã hội.

2) Phản biện khoa học, phản biện xã hội, phải trở thành hoạt động thường xuyên, có cơ chế để mọi cán bộ, người dân tham gia vào xây dựng quyết sách, nhất là khi nó liên quan đến các lợi ích trực tiếp đến đời sống của họ.

3) Tạo ra nhiều cơ hội cho các tổ chức này thực hiện quyền giám sát quyền lực nhà nước; tổ chức hoạt động diễn đàn thảo luận và điều tra dư luận xã hội, trưng cầu dân ý về các vấn đề nhạy cảm và quan trọng đang đụng chạm đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.

4) Bảo đảm cơ chế cho các phương tiện tuyền thông đại chúng trong việc hình thành dư luận xã hội và thông qua dư luận xã hội tác động đến cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Các phương tiện truyền thông đại chúng không chỉ là tiếng nói của Đảng cầm quyền, của Nhà nước mà còn là diễn đàn của nhân dân, thể hiện tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân; trong đó có việc đề xuất các vấn đề nên làm, các vấn đề cần được bổ sung hoàn thiện.

5) Hàng năm, tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội quy mô lớn về đánh giá của dư luận xã hội đến việc thực hiện các giá trị mục tiêu tổng quát của đất nước hiện nay và trong những năm sắp tới.

(7)

Tài liệu tham khảo

Các văn bản về Quy chế dân chủ ở cơ sở. 1999. Nxb Thống kê, Hà Nội.

Hồ Sĩ Quý. 2005. Về giá trị và giá trị châu Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Lưu Minh Trị (chủ biên). 1997. Một số vấn đề về công tác tư tưởng và nghiên cứu dư luận xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Mai Quỳnh Nam. 1996. Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, Tạp chí Xã hội học số 1 (53), tr. 3-6.

Mai Quỳnh Nam. 2000. Vai trò của dư luận xã hội trong cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Tạp chí Tâm lý học số 2, tr. 50-54.

Phạm Minh Hạc. 2011. Giá trị học - Cơ sở lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của người Việt Nam thời nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Phạm Minh Hạc. 2011. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc đúc kết, xây dựng hệ giá trị chung của người Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 3.

Phan Tân, Bùi Phương Đình. 2014. Truyền thông ngày nay và dư luận xã hội trước một số hiện tượng xã hội bức xúc, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 1(373), tr.32-40.

Phan Tân. 2011. Dân chủ trong hệ mục tiêu đổi mới phát triển, Tạp chí Triết học, số 6 (241), tr.50-57.

Phan Tân. 2013. Chuyển biến tư duy về dân chủ và một số thành quả thực hiện qua đánh giá từ thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 4(364), tr.14-22.

Trần Văn Giàu. 2011. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Ba là, gắn việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Quận 1, TPHCM Các nhà sáng lập Chủ nghĩa xã hội khoa học

Đây là những vấn đề được coi là cơ bản để duy trì thể chế chính trị ổn định trong giai đoạn sắp tới nhưng nhiều nhận định của người dân nông thôn lại không

Chưa nói đến gánh nặng tâm lý nghề nghiệp mà người công nhân quét rác thuộc công ty Vệ sinh môi trường đô thị phải gánh chịu, chỉ riêng việc phải thường xuyên tiếp

Những luận điểm lý thuyết mới như vậy không chỉ soi đường cho các nghiên cứu thực nghiệm, mà quan trọng hơn nó còn giúp rất nhiều cho các nhà quản lý và hoạch

Theo Fiske (2002), các nhà nghiên cứu hay quan tâm đến sự hoạt động của giá trị văn hóa trong mối quan hệ với tâm lý (như cách thức ứng xử, giao tiếp), và ngược lại các nhà

ơ Việt Nam, sở dĩ mới chỉ có các biếu hiện dân túy ờ một bộ phận nhố cán bộ, đàng viên vì trước những hạn chế, tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xâ hội, nhất

Tích cực tuyên truyền, vận động gia đình và mọi ngƣời xung quanh thực hiện tốt Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình của

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH LÀM VIỆC DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH Học tập và làm theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tổ chức, trong tập