• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử văn THPT quốc gia 2019 - Thạc Sỹ Nguyễn Thành Huân - Đề 4 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử văn THPT quốc gia 2019 - Thạc Sỹ Nguyễn Thành Huân - Đề 4 | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
8
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Ths. Đỗ Ngọc Thống ĐỀ THI THỬ THPTQG NĂM 2019

CHUẨN CẤU TRÚC CỦA BỘ GIÁO DỤC – ĐỀ 4 Môn thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề Họ, tên thí sinh:...

Số báo danh:...

I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:

Nấm mồ xanh

như một giọt lệ ngưng trên hình hài Tố quốc

chúng tôi đến bên anh như lá xanh non củi nhìn cội rễ một màu thạch thảo thanh tao.

Từ nơi nào mẹ đã tiễn anh đi?

mải ra, bờ đê hàng cây, góc phổ đê vẫn xanh và bờ cây còn gió...

Từ nơi nào...

mắt ướt chia li

bờ vai khép phượng hồng vào kỉ niệm đất nước ngày lửa đạn

các anh đi biếc cả rừng già Anh trở về với cỏ lặng im

mặt trời ngang qua dịu dàng nghiêng nắng mùa thu ngang qua khẽ khàng buông lá đất dâng lên khói sương lời ru...

Có một ước mơ trời xanh còn nhớ có một tình yêu mùa thu còn giữ

có một tuối hai mươi đất nước ủ trong lòng.

(Theo http://dantri.com.vn/bloglViet bên mộ liệt sĩ vô danh, Tuyết Nga) Câu 1: Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ?

Câu 2: Xác định biện pháp tu từ trong đoạn thơ trên? Và nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó.

Câu 3: Từ đoạn thơ trên, anh (chị) có suy nghĩ gì khi thấy có những nguời làm giả hồ sơ thương binh, bệnh binh?

Câu 4: Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa của bài thơ trên.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm)

Câu 1 (2,0 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩa của anh (chị) về ý kiến:

Những gỉ tôi có, nay thuộc vể người khác

Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi.

Câu 2 (5,0 điểm):

(2)

Đọc đoạn văn dưới đây:

... Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thốn thức nghĩ mình không bằng con ngựa...

(Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 8) Anh (chị) hãy bình giảng đoạn văn trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ tới hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú Xương (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) và hình ảnh người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm) nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm (Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để làm nổi bật giá trị nhân đạo được thể hiện trong các đoạn trích.

--- HẾT ---

HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của bài thơ là phương thức biểu cảm.

Câu 2:

- Xác định biện pháp tu từ: biện pháp so sánh, ẩn dụ: “Nấm mồ xanh như một giọt lệ ngưng trên hình hài Tổ quốc”; “chúng tôi đến bên anh như lá xanh non cúi nhìn cội rễ”.

- Tác dụng: Khẳng định nỗi xúc động của tác giả khi nghĩ về mất mát đau thương, sự cống hiến, sự hi sinh của các anh - những liệt sĩ vô danh. Xương máu các anh đã vẽ nên hình hài đất nước. Đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn của thế hệ hôm nay với các liệt sĩ đã ngã xuống vì sự bình yên của Tổ quốc.

Câu 3:

- Từ đoạn thơ, suy nghĩ gì khi thấy có những người làm giả hồ sơ thương binh, bệnh binh. Thí sinh bày tỏ chân thành những suy nghĩ của mình về hiện tượng này:

+ Sự trục lợi của một số thành phần bất hảo.

+ Sự phẫn nộ, day dứt, xót xa.

+ Đi ngược lại truyền thống, đạo lí của dân tộc.

=> Vì đó là hành động vô đạo đức, vi phạm pháp luật.

Câu 4:

- Dòng đời xuôi ngược, người ta tìm những thứ đã đánh rơi, kiếm những gì đã lạc mất và cố mua cho được những thứ mình đang cần mà quên mất những giá trị mang lại cho con người hạnh phúc đích thực. Vì thế, con người ngày nay có vẻ như bơ vơ, lạc lõng giữa một xã hội đầy đủ tiện nghi do cứ mải mê đi tìm, đi kiếm và đi mua cho được những thứ nay còn mai mất.

- Tiền bạc sẽ không theo con người lúc chết, những tiện nghi sẽ nói lời vĩnh biệt lúc con người qua thế giới bên kia. Chỉ còn lại tình thương và sự trao ban mới sống mãi với thời gian. Dù câu nói trên chỉ khắc trên bia mộ nhưng nó vẫn mang lại cho cho cuộc đời nhiều bài học đáng quý, đáng trân trọng và nó phản ánh được thực tế sống của con người. Dù ở bất cứ thời đại nào thì câu nói trên vẫn luôn đúng và là bài học để ta ý thức hơn về hành trình sống của kiếp nhân sinh.

II. LÀM VĂN (7,0 điểm):

(3)

Câu 1 (2 điểm) A. Về kĩ năng

- Biết viết một văn bản nghị luận xã hội với độ dài đúng quy định.

- Bài viết có bố cục chặt chẽ; lập ý sáng tạo; vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận…; hành văn mạch lạ, trôi chảy, có cảm xúc; không mắc lỗi dùng từ, chính tả.

B. Về kiến thức

Bài làm có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

1. Mở đoạn

- Thực tế của cuộc sống đã cho thấy: tiền tài, danh vọng, sắc dục, các tiện nghi là những nhu cầu làm thỏa mãn cho sở thích của con người trong một thời gian ngắn, chỉ có những gì ta trao tặng thì mới đáng quý và đáng trân trọng. Trong chiều hướng đó, trên bia mộ trong một nghĩa trang có khắc mấy dòng chữ sau đây:

Những gì tôi có, nay thuộc về người khác

Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi.

Vậy chúng ta hiểu câu nói này như thế nào? Đâu là thông điệp mà câu nói muốn hướng tới?

2. Thân đoạn a. Giải thích

- “Những gì tôi có, những gì tôi đã mua sắm” là những thứ đồ dùng ta đang được sở hữu, do bởi sức lực ta làm ra, hay được thừa hưởng của người khác.

- “Những gì tôi cho đi” thể hiện sự quảng đại của bản thân trong cách sử dụng của cải vật chất hay sự trao ban tình thương bằng tấm lòng vị tha, bao dung trước mọi hoàn cảnh trong cuộc sống.

=> Vì thế, câu nói gợi lên trong ta sự bất lực của con người trước của cải vật chất trong cuộc đời. Nói khác hơn, nêu lên tầm quan trọng của giá trị cuộc sống hiện tại bởi sự cho đi không tính toán chứ không bởi thái độ tích góp giữ riêng cho bản thân.

h. Bàn luận và chứng minh

- Chưa bao giờ đồng tiền lại chi phổi và quyến rũ con người như ngày nay, người ta có thể vì tiền mà bất chấp luân thường, đạo lí để làm sao cho có thật nhiều tiền.

- Với sự phát triển của khoa học một cách nhanh chóng thì những sản phẩm hôm nay được xem là hiện đại những ngày mai bị xem là lỗi thời. Nói thế đế chúng ta không nên cứ bám víu vào của cải là những thứ nay còn mai mất.

- Thử hỏi trong cuộc sống lúc nhắm mắt, buông tay có ai mang theo bên mình thứ gì mà cả đời đã bỏ tâm huyết để đi tìm. Lịch sử đã minh chứng điều này: một “Salomon dù vinh hoa tột bậc”, dù có trăm thê, ngàn thiếp thì lúc chết ông cũng không thể mang một ai theo bên mình. Một Tần Thủy Hoàng dù cho ngọc châu chất cao như núi cũng không thể mang được một chút bên mình lúc thần chết gõ cửa. Hay ông phú hộ mà Kinh Thánh đã nhắc tới, lúc còn sống ngày nào cũng yến tiệc linh đình, thưởng thức đủ các loại cao lương mĩ vị, vậy mà lúc qua khỏi cuộc đời ông thèm được một giọt nước từ Lazaro nghèo hèn cho thỏa cơn khát cũng không được. Nhưng quan niệm của con người ngày hôm nay thì khác, dù biết những gì mình mua thì người khác sẽ hưởng dùng nhưng vẫn cứ thích sắm.

- Tuy nhiên, nói qua thì cũng phải nói lại, nếu biết những gì mình đang sở hữu, những gì mình đã mua mà không được sử dụng nhưng trong tâm nghĩ rằng mình không dùng thì dành cho thế hệ sau thì hành động này cũng đáng quý, điều này thể hiện sự quan tâm lo lắng cho người khác.

- Cuộc sống ngày càng nghiêng về chiều hướng hưởng thụ, ai cũng cố gắng tranh thủ tích góp tiền bạc hay củng cố địa vị, để tôn vinh cái tôi của mình, để thấy mình có giá trị. Từ đó, không gian tự do của con người ngày càng bị thu hẹp, ý niệm về tình thương đã thành lỗi thời.

- Cuộc sống luôn cần sự cho đi. Vì lúc biết cho đi thì con người nhận được nhiều hon những thứ mình

(4)

đã cho đi. Vì thế sự cho đi sẽ không bao giờ trở nên vô ích, có thể ngay tại thời điểm cho đi ta chưa nhận ra được những ích lợi từ nó, nhưng với thời gian khi hạt giống của sự cho đi được gieo xuống cuộc đời thì nó sẽ trổ sinh trái ngon, quả tốt.

c. Bài học nhận thức và hành động

- Những tiện nghi nhằm phục vụ cho con người trong cuộc sống chỉ là nhu cầu cần chứ chưa đủ. Nghĩa là không thể phủ nhận những ích lợi mà chúng mang tới cho con người. Nhưng cũng không vì thế mà ta cứ mải mê đi tìm những thứ đó.

- Trong cuộc sống còn có những thứ quan trọng hơn như: tình thương, sự trao ban, đó là những phạm trù mang tới cho con người cảm giác hạnh phúc. Chính tình thương là quà tặng cùa cuộc sống, sự trao ban là nét đẹp trong cuộc đời mà ai cũng khát khao.

- Tình thương sẽ phát sinh năng lực sống cho con người, sự trao ban là động lực giúp đối tượng được lớn lên. Những tiện nghi có thế mua bằng tiền nhưng lại không tồn tại với thời gian. Còn tình thương không phải mua bằng bạc nhưng ở mãi với cuộc sống. Dù con người có sống đầy đủ trong tiện nghi vật chất mà không có tình thương thì lúc bước qua bên kia cuộc đời cũng chẳng để lại gì cho cuộc sống.

3. Kết đoạn

- Qua câu nói trên, ta mới giật mình thấy trong cuộc sống sự cho đi đáng quý gấp ngàn lần những tiện nghi. Hơn nữa sự cho đi cũng không phải vất vả để đi tìm, nó luôn ẩn náu trong cuộc sống chi cần chúng ta mở rộng dung lượng trái tim thì chúng sẽ phát sinh.

- Do đó, sẽ không thiệt thòi nếu chúng ta biết mở rộng lòng mình ra trải tình thương trong cuộc sống, để lúc lúc nhắm mắt, buông tay tình thương là lệ phí giúp đến bến bờ hạnh phúc.

Câu 2 (5 điểm) 1.Mở bài

- Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm

+ Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga M. Goor-ki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lởn". Nhà văn chỉ thực sự là "người thư kí trung thành của thời đại" (Banzắc) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời... của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời.

- Dẫn vào vấn đề cần nghị luận

+ Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ, quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thìa của cuộc giao tranh đó.

+ Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng “Chập chờn cơn tỉnh cơn mê" (Truyện Kiều, Nguyễn Du) của bông hoa ban núi rừng Tây Bắc – Mị, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nên một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc:

Trong bóng tối, Mị đứng im như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...". Mị vùng bước đi. Nhưng chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thốn thức nghĩ mình không bằng con ngựa...

2. Thân bài

2.1.Khái quát chung

-Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng,

(5)

nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như: O chuột, Dế Mèn phiêu lưu kí... Sau Cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như: Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Cát bụi chân ai... Trong tập Truyện Tây Bắc, nối tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị - người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

-Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953 sau chuyến đỉ thực tề cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương.

-Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mơ hồ về thời gian. Mị không nhớ mình về đây được mấy năm, vì trước nay với Mị đâu có mùa xuân. Nhưng giờ đây Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác:

“Mị muổn đi chơi”. Có thể đối với Mị là một sự thay đổi lớn lao và vẫn còn kịp lúc, tuy bắt nguồn từ cảm xúc nhất thời nhưng nó cũng chứng tỏ Mị vẫn còn đó bao khát khao: “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lẩy cái váy hoa vắt ở trong vách”.

-Chính sự thay đổi đó làm cho A Sử ngạc nhiên, vì dưới mắt hắn Mị chẳng khác nào một nô lệ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị, nhưng không thể giam giữ được tâm hồn của Mị: “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị giờ như chơi vơi trong mộng. Mị trở về thời xưa với bao ước vọng. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng rồi Mị cũng trở về thực tại. Chính sức sống của Mị buộc cô phải nghĩ đến liệu cô có duy trì được nó hay không. Mị nhớ đến người chị dâu đã bị trói cho đến chết. Mị sợ. Một khi người ta biết sợ chết thì người ta càng thêm yêu cuộc sông. Và Mị cũng vậy.

2.2 Bình giảng

a. Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: “Mị vùng bước đi”. Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa

-“Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với

“tiếng sáo rập rờn trong đầu”, và thế giới của hiện thực với “tiếng chân ngựa đạp vào vách”.

-Tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo “tiếng sáo gọi bạn yêu” và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

=> Thật cô đúc mà thấm thìa. Kiệm lời mà hàm chứa nhiều ý nghĩa.

b. Tiếng sáo: ước mơ - sức sống của Mị

-“Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang Sống với ước mơ, sống trong những kỉ niệm đẹp của những ngày tháng tự do, sống trong quá khứ chứ không sống với hiện thực, bằng thực tại.

Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi”.Chính âm thanh du dương, nồng nàn và đắm say của tiếng sáo kia đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Thế mới biết sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong con người Mị mạnh đến nhường nào.

-Sức sống ấy khiến Mị đã quên đi tất cả hiện thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói! Chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, miên man và chập chờn trong tiếng sáo.

(6)

=> Xây dựng nên khoảnh khắc tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc về sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng Mị lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu tượng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.

c.Tiếng chân ngựa: hiện thực - số phận của Mị

-“Mị vùng bước đi” nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe “tiếng chân ngựa đạp vào vách”.

-Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình “không bằng con ngựa”.

-Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác, nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân phận con người mà không bằng thân trâu ngựa?

=> Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.

d. Tiểu kết đoạn văn vừa bình giảng

- Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thoát khỏi căn nhà ấy, dù chỉ một giây phút.

Nhưng Mị đã không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bàng hoàng tỉnh, Mị chợt nhớ đến câu chuyên một người vợ trong nhà thống lí Pá Tra bị trói đã chết không ai hay. Và, Mị sợ quá. Mị còn muốn sống. Mị còn ham sống.

- Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi tan ra. Nó không mảy may thay đổi cuộc đời Mị.

Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết!

2.3 Đánh giá

-Tinh tế trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng bước đi”', tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” - hai tâm trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật.

-Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa”

đối lập nhau và đầy ấn tượng.

-Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước sổ phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

2.4 Liên hệ

a. Hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương vợ

-Bài thơ Thương vợ nằm trong những sáng tác của Tú Xương về bà Tú - là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của ông viết về bà.

-Trong bài thơ hình ảnh bà Tú được Tú Xương khắc họa luôn ở trong tư thế bận rộn, tất bật với công việc mưu sinh: “Quanh năm buôn bán ở mom sông”. Bà Tú tảo tần, vất vả, lam lũ, nhọc nhàn, gian truân là thế nhung bà sẵn sàng chấp nhận, không kêu ca, phàn nàn, không oán trách. Bà chấp nhận với sự nhẫn nại, vị tha và đức hi sinh quên mình.

-Bằng tình cảm yêu thưong và sự biết ơn sâu sắc đối với vợ, Tú Xương đã vẽ nên bức chân dung chân thực và cảm động về người vợ đảm đang, sẵn sàng hi sinh tât cả vì chồng vì con. Nhà thơ không chỉ hiểu và cảm nhận được những lo toan, vất vả thầm lặng trong cuộc mưu sinh của người vợ hiền mà còn hiểu và cảm nhận được những suy nghĩ, tình cảm và nỗi niềm sâu kín của bà Tú. Không có sự cảm thông, thương yêu chân thành, ông Tú không thể viết nên những vần thơ tri ân sâu sắc với vợ mình như thế.

(7)

b. Hình ảnh người chinh phục trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

-Ba mươi sáu câu thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ như tích tụ nỗi đau, nồi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi ở tầng sâu nhất của tác phẩm.

-Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại.

-Khi đối diện với ngọn đèn người chinh phụ đáng thương ẩy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi trải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết: “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian.

-Sống trong không gian cô đơn ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên ải xa xôi kia với một tấm lòng thủy chung, sắt son.

2.5.Nhận xét và bình luận về giả trị nhân đạo

-Đoạn trích trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Thương vợ (Trần Tế Xương) và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm) đều được thể hiện ngay từ đề tài, chủ đề của tác phẩm:

+ Ngay nhan đề Vợ chồng A Phủ, tác giả đã thể hiện tư tưởng cốt lõi, chủ đạo của truyện. Đọc nhan đề, ta có thể hình dung ra ngay cuộc đời của những chàng trai, cô gái người Mèo vùng núi trước Cách mạng tháng Tám, họ bị áp bức, bóc lột dưới ách thống trị của bọn chúa đất phong kiến, tay sai và thực dân, đồng thời ca ngợi sự đổi đời của họ khi cách mạng về.

+ Bằng ngòi bút tài hoa của mình, nhà thơ Tú Xương đã mang đến cho tác phẩm Thương vợ một nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật bà Tú, một nhân vật tiêu biểu cho phẩm chất giàu đức hi sinh, tấm lòng vị tha của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

+ Viết về nỗi buồn khổ, cô đơn trong sâu thẳm tâm hồn người chinh phụ cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ đồng tình và ngợi ca của mình đối với niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của nàng. Và đó cũng chính là một biểu hiện trong giá trị nhân đạo của đoạn trích Tĩnh cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

-Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông, chia sẻ đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Chủ nghĩa nhân đạo không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích, áp bức, khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con người làm chủ, chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc của mình.

- Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, bài thơ Thương vợ, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội thực dân và phong kiến; sự nâng niu nét đẹp tâm hồn mà hơn cả là sự lên án chế độ xã hội phong kiến với những luật lệ hà khắc.

- Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, tinh thần nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi. Nhờ có giá trị nhân đạo mà người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện, bài thơ. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Sự khám phá mới mẻ của Tô Hoài, Tú Xương, Đặng Trần Côn nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời.

3.Kết bài

- Đen với thơ, văn là đế hiểu thêm tấm lòng của các nhà văn, nhà thơ khi viết về vẻ đẹp và phấm chất của người phụ nữ. Đặc biệt là tấm lòng đồng cảm yêu thương của các tác giả đối với nhân vật của mình. Ở

(8)

đoạn văn trong Vợ chồng A Phủ Tô Hoài đã làm bật nổi được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm về nhân vật cũng như tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này. Có thể nói Thương vợ là bài thơ tuyệt bút của Tú Xương viết về nỗi vất vả, gian truân và đức hi sinh cao đẹp của bà Tú. Không bộc lộ trực tiếp sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa nhưng thông qua việc thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình, tác giả Chinh phụ ngâm muốn cất tiếng tố cáo chiến tranh. Chính những cuộc chiến phi nghĩa này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng những người chồng phải xa vợ, những người mẹ phải lìa con, hạnh phúc, tình yêu lứa đôi lỡ dở.

- Rõ ràng Vợ chồng A Phủ, Thương vợ, Tĩnh cảnh lẻ loi của người chỉnh phụ mãi mãi là hành trang để chúng ta bước vào cuộc sống. Mỗi một tác phẩm văn học chân chính là một lời đề nghị về cách sống, có khả năng nhân đạo hóa con người.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Câu 2: Đề bài yêu cầu nêu ý nghĩa của ba câu hỏi ở ba khổ thơ của bài Đây thôn Vĩ Dạ. Vì thế, HS cần đặt các câu hỏi vào ngữ cảnh của nó để phân tích, nắm được

Họ sẽ là những doanh nhân và chuyên gia thuộc mọi lĩnh vực, nối tiếp thế hệ đàn anh tiếp tục gánh vác trách nhiệm phát triển đất nước.. Sinh

+ Đến với đoạn trích thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ, cảm hứng khắc họa bức tranh thiên nhiên và con người lại được khơi nguồn từ tình yêu đôi lứa và khát vọng

Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của

- Tôi nghĩ rằng, sự yêu mến cuộc sống của chúng ta, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức môi trường, người dân Việt bằng việc làm của mình, sẽ đem

Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường: “trăm con sóng nhỏ” như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn Nhà thơ

Câu 4: HS bày tỏ sự đồng tình hoặc phản đối (hoặc kết hợp cả hai) với quan điểm của nhân vật "bà cô": Thời bây giờ có được vài trăm cây vàng không

Tô Hoài rất khéo léo đưa những tập tục của người Mông vào trong tác phẩm, từ đám cưới của cha mẹ Mị đến đám cưới của Mị, tục bắt vợ, tục cúng trình ma,... A Sử