• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đặc biệt khi trong lớp có học sinh chậm tiến bộ thì nhiệm vụ của người GVCN lại càng quan trọng hơn rất nhiều

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đặc biệt khi trong lớp có học sinh chậm tiến bộ thì nhiệm vụ của người GVCN lại càng quan trọng hơn rất nhiều"

Copied!
6
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CHẬM TIẾN CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM

Nguyễn Thị Thảo* Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT

Giáo dục học sinh chậm tiến là một nhiệm vụ của người giáo viên chủ nhiệm (GVCN). Tuy nhiên, đây là công việc rất khó khăn và phức tạp. Tiếp cận với học sinh và đưa ra những biện pháp giáo dục là một việc quan trọng giúp các em có đầy đủ năng lực và phẩm chất, có khả năng hoà nhập và thích ứng năng động, sáng tạo với cuộc sống mới. Muốn giáo dục tốt cho học sinh trong lớp chủ nhiệm nói chung và học sinh chậm tiến bộ nói riêng, người GVCN khi nhận lớp đều phải kiểm tra cơ bản học sinh. Sau đó, GVCN xem trong lớp có học sinh chậm tiến bộ không, chậm tiến bộ ở mặt nào và hoàn cảnh nào, từ đó đề ra các biện pháp giáo dục tích cực và xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm cho phù hợp.

Từ khóa: Giáo dục, học sinh, học sinh chậm tiến, giáo viên chủ nhiệm, lớp chủ nhiệm

ĐẶT VẤN ĐỀ*

Việc giáo dục thế hệ trẻ trở thành những người công dân, người lao động có đủ phẩm chất và năng lực, có khả năng hoà nhập và thích ứng năng động và sáng tạo với cuộc sống đang thay đổi nhanh chóng là vấn đề đặt ra đối với toàn xã hội, đặc biệt là trong nhà trường. Giáo dục học sinh không chỉ quan tâm về mặt trí thức, kỹ năng cho thế hệ trẻ mà cần phải giáo dục cho các em về mặt tình cảm đạo đức để các em trở thành các học trò chăm ngoan, có nhân cách phát triển toàn diện. Để hoàn thành nhiệm vụ này, trong những năm gần đây các nhà trường trong cả nước nói chung và trường THPT nói riêng đã không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao đội ngũ giáo viên, tuyển chọn đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng lực, nhất là GVCN. Đặc biệt khi trong lớp có học sinh chậm tiến bộ thì nhiệm vụ của người GVCN lại càng quan trọng hơn rất nhiều.

Người GVCN phải có trách nhiệm giáo dục các học sinh đó trở thành những học trò ngoan, học giỏi, có tri thức, phẩm chất đạo đức tốt, để sau này các em trở thành những công dân có ích, có thể cống hiến một phần sức lực của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Kết quả nghiên cứu lý thuyết

Học sinh chậm tiến là những học sinh có biểu hiện về thái độ và hành vi không đúng với những quy định của nhà trường, những chuẩn mực của xã hội. Thực tế chó thấy có những học sinh điều kiện gia đình đầy đủ của cải, vật chất, cha mẹ họ muốn con em mình học hành đến nơi đến chốn, nhưng học sinh đó lại muốn ăn chơi đua đòi, lười học, kiến thức bị rơi dụng dần, chán học rồi có những hành vi ngang ngược, nối dối thầy cô, cha mẹ, bạn bè, thậm chí có những học sinh hỗn láo, vô lễ đối với thầy cô, cha mẹ.[2]

Việc giáo dục học sinh chậm tiến là một công việc rất khó khăn và phức tạp. Muốn giáo dục được học sinh đó, người GVCN phải hiểu được nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện chậm tiến của học sinh. Lứa tuổi học sinh phổ thông là lứa tuổi thanh niên mới lớn, các em đang và mới bắt đầu cảm nhận thế giới xung quanh bằng những vốn tri thức của mình. Các em luôn tự khẳng định mình trong cuộc sống, những suy nghĩ của các em vẫn còn nông nổi.

Vì vậy, việc làm của các em nhiều khi không phù hợp với những yêu cầu của thực tế, của tập thể, của xã hội. Đồng thời, ở lứa tuổi này, khi không đạt được kết quả như mình mong muốn các em thường có biểu hiện chán nản, tự ti. Cũng từ đó mà các em bị tách rời khỏi tập thể. Ngoài ra, các em còn nhiều mối quan hệ khác ngoài xã hội, trong gia đình mà

(2)

những mối quan hệ đó ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách của các em. Vì vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện chậm tiến ở học sinh, người GVCN phải đi sâu tìm hiểu những nguyên nhân đó để có những biện pháp giáo dục kịp thời và có lộ trình triển khai phù hợp, mang lại kết quả cao nhất. [1] [2] [3]

Việc giáo dục học sinh chậm tiến đòi hỏi GVCN phải nắm vững những thông tin về biểu hiện của học sinh để phân loại học sinh chậm tiến. Trên cơ sở phân loại đó, giáo viên phải cần có biện pháp giáo dục kịp thời, giúp các em tìm ra được nhược điểm của mình và khắc phục những mặt nhược điểm, hạn chế đó một cách dần dần. Từ đó, các em có thể trở thành những học sinh tốt, biết thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình theo yêu cầu của tập thể.

Việc giáo dục học sinh, đặc biệt là học sinh chậm tiến đòi hỏi người GVCN phải kiên trì,

bền bỉ, thận trọng, có phương pháp, lòng yêu nghề và yêu thương học sinh.

Kết quả nghiên cứu thực tiễn. [3]

Tình hình học sinh chậm tiến trong lớp.

Nhìn chung học sinh trong các tập thể lớp ở trường Trung học phổ thông đa phần đều là những học sinh ngoan. Các em đoàn kết, giúp đỡ nhau về mọi mặt. Tập thể lớp có phong trào học tập cũng như rèn luyện khá tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những học sinh chậm tiến với những biểu hiện chưa tốt và thường xuyên vi phạm nội qui của nhà trường.

Kết quả nghiên cứu, điều tra

Kết quả điều tra về học sinh chậm tiến tại một tập thể lớp qua 2 năm làm chủ nhiệm của GVCN tại Trường THPT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, cho thấy học sinh chậm tiến bộ có những biểu hiện: chậm tiến về học tập;

chậm tiến về đạo đức.

* Bảng hệ thống học sinh chậm tiến

TT Họ và tên Tuổi Giới tính Nghề của cha Nghề của mẹ

1 Nguyễn Xuân A 16-17 Nam Công nhân Nội trợ

2 Phạm Thái B 16-17 Nam Bộ đội Bộ đội

3 Trần Bá C 16-17 Nam Công nhân Buôn bán

4 Cao Thanh D 16-17 Nam Công nhân Buôn bán

5 Nguyễn Văn E 16-17 Nam Nông dân Nông dân

* Hành vi vi phạm của học sinh về mặt đạo đức

TT Họ và tên Nói dối Đánh nhau Vô lễ với GV Nói tục Đi học muộn

1 Nguyễn Xuân A 01 Không Thường xuyên

2 Phạm Thái B 0 Không Đôi khi

3 Trần Bá C 01 Không Đôi khi

4 Cao Thanh E 0 Không Đôi khi

* Hành vi vi ph¹m của học sinh về mặt học tập TT Họ và tên Số tiết

bỏ giờ Mất trật tự Không học bài và làm bài

ở nhà Quay bài

1 Nguyễn Xuân A 3 Nhiều lần Thường xuyên Đôi khi

2 Phạm Thái B 4 Thường xuyên Thường xuyên Đôi khi

3 Trần Bá C 2 Nhiều lần Thường xuyên Đôi khi

4 Cao Thanh D 3 Nhiều lần Thường xuyên Đôi khi

5 Nguyễn Văn E 0 Không Đôi khi Đôi khi

Những biểu hiện chậm tiến của những học sinh trên

Qua tìm hiểu giáo viên bộ môn, tìm hiểu gia đình và điều tra quan sát trong lớp, các em học sinh chậm tiến có những biểu hiện sau:

3.1- Em Nguyễn Xuân A

(3)

A là một học sinh chậm tiến cả về mặt học tập lẫn đạo đức, em luôn có những biểu hiện ngang bướng, lười học, trong lớp không chú ý nghe giảng mà thường xuyên làm việc riêng, mất trật tự, hay nói tự do, vô tổ chức, không trung thực. A cũng thường xuyên vi phạm nội quy của nhà trường như đi muộn, nghỉ học không lý do, nói tục, chửi bậy, ham chơi điện tử, đua đòi không phù hợp với điều kiện gia đình, đã có lần bị đối tượng bên ngoài gây gổ đánh nhau. Kết quả học tập cũng như hạnh kiểm của em thường ở mức trung bình- yếu.

Qua tìm hiểu GVCN thấy học sinh A có hoàn cảnh như sau: Gia đình có bố làm công nhân may đi làm cách nhà 10km, mẹ đi lao động nước ngoài nên việc dạy bảo con cái là do một mình bố A quán xuyến, bố A cũng không có thời gian vì ông thường đi làm từ sáng sớm đến tối mới về. Vì vậy, việc sử dụng thời gian trong một ngày là do A tự quyết định. Qua tìm hiểu được biết ngày học tiểu học đến đầu THCS A là học sinh ngoan và học giỏi, nhưng từ cuối những năm học THCS A bắt đầu sa sút về học tập và đạo đức. Mặc dù rất nghiêm khắc với con nhưng vì mải làm ăn nên bố A không có thời gian chú ý đến việc học hành của con cái, không thường xuyên kiểm tra hướng dẫn và khuyên bảo con cái học tập. A được giám sát bởi một người bác họ ở cạnh nhà về việc đi về học đúng giờ hay không, nhưng gia đình không biết rằng ngoài thời gian lên lớp ra thì con cái họ còn tham gia vào các hoạt động khác của nhà trường và rất nhiều hoạt động của xã hội vì vậy việc quản lí chúng ra sao thì cha mẹ học sinh có vai trò quan trọng. Cha mẹ A đã vô tình quên mất vai trò giáo dục của gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của em. Dần dần A đã trở thành người hay nói dối, đua đòi hay đi chơi cùng các đối tượng xấu ngoài xã hội, học tập ngày một sa sút.

3.2- Em Phạm Thái B

B là học sinh trường khác chuyển đến, em có thể hình cao lớn khoẻ mạnh, học lực khá nên dễ gây thiện cảm với mọi người. Thời gian đầu, B chưa có biểu hiện gì về mặt đạo đức nhưng bắt đầu lười học, cẩu thả, trong lớp rất hay mất trật tự. GVCN tìm cách liên lạc với gia đình nhưng không được, viết giấy báo

cáo về gia đình thì vẫn nhận được thông tin phản hồi ngược lại. Sau một học kỳ kết quả học tập bị sa sút, em bị thi lại môn Toán - môn học sở trường của em.

Qua tìm hiểu và đến thăm gia đình GVCN được biết cha mẹ B là bộ đội, thời gian đi làm ở đơn vị nhiều, phần vì chủ quan con học khá nên chỉ đầu tư tài chính cho em học mà không chú ý giám sát em, lợi dụng sự chủ quan của cha mẹ B dần sinh ra lười học và hay nói dối.

Những thông tin của GVCN không đến được với gia đình vì B đã nhờ người khác xác nhận vào báo cáo rồi gửi lại cho GVCN, phần GVCN thì yên tâm vì gia đình B đã biết về tình hình của học sinh. Gần đây, B hay nói chuyện riêng trong lớp và rất lười học bài, hay nói dối và đặc biệt rất cẩu thả. Nếu không có những biện pháp giáo dục thích hợp giúp em thì em sẽ nhanh chóng trở nên hư hỏng.

3.3- Em Trần Bá C

Ở lớp em C là một học sinh nhìn bề ngoài có thể thấy em ngoan, thông minh nhưng tìm hiểu mới thấy em là một học sinh lười học và cẩu thả, không học bài nên thường bị điểm kém khi kiểm tra, làm mất điểm thi đua của lớp. Bên cạnh đó em còn đi học muộn, trong lớp hay mất trật tự cô giáo Chủ nhiệm cũng như các thầy cô giáo bộ môn nhắc nhở nhiều lần nhưng em chỉ vâng dạ rất ngoan nhưng rồi vẫn chứng nào tật ấy. Có đôi lần GVCN gặp C ngồi quán ở vỉa hè và có dấu hiệu hút thuốc lá, uống rượu, GVCN nhắc nhở thì C cho rằng ngồi quán uống nước không có gì là xấu và không thừa nhận việc có sử dụng thuốc lá và rượu.

Qua tìm hiểu thấy gia đình em là một gia đình cơ bản. Bố mẹ em cũng khá quan tâm đến việc học của con cái. Bố mẹ C tâm sự "Tôi quan tâm đến việc học tập của con cái nhưng chỉ biết tạo điều kiện về thời gian cùng vật chất và quản lý việc học ở nhà buổi tối, còn hướng dẫn nó học thế nào, làm bài thế nào thì tôi chịu vì trình độ của chúng tôi không thể dạy và kiểm tra được nó ”.

Như vậy em C về nhà không có sự chỉ bảo học tập, đến lớp bị điểm kém nên dần dần em chán học sinh ra mất trật tự trong lớp làm ảnh

(4)

quán nước có dấu hiệu không lành mạnh để lâu tình trạng này rất nguy hiểm.

3.4- Em Cao Thanh D

Ở lớp em D thường xuyên mất trật tự, không học bài hay nói dối GVCN, đôi lần nghỉ học không phép và bỏ giờ. Gia đình em ở huyện Phú Lương, là gia đình nề nếp, cha mẹ rất quan tâm đến việc học hành của com, muốn tạo điều kiện tốt cho D học tập nên bố mẹ đành gửi con về ở với ông bà nội dưới thành phố. D vốn là học sinh ngoan nhưng từ khi về ở với ông bà vì biết ông bà già yếu không giám sát được nên sinh ra lười học, hay ăn quà và hay nói dối ông bà để đi chơi. Đến lớp, em không học bài hay mất trật tự, lười lao động và cẩu thả trong nhiều hoạt động.

3.5- Em Nguyễn Văn E

E là học sinh ở trường khác chuyển về, em vốn là người hiền lành, lầm lì ít nói và đặc biệt không hoà nhập, hoà đồng với tập thể lớp. GVCN quan sát thấy em không có gì chuyển biến và đặc biệt hơn nữa là có vẻ em rất thích học nhưng lại học rất yếu, qua tìm hiểu GVCN thấy hoàn cảnh gia đình em rất vất vả, nhà ở huyện Phú Bình có hai anh em, cha mẹ không có việc làm ổn định và đặc biệt là không có đất đai để canh tác, sản xuất nông nghiệp. Bố em lại bị vấn đề về thần kinh nên sáng đi học chiều về E phải đi làm thuê bất cứ việc gì cùng mẹ, cả nhà chỉ trông vào những đồng tiền ít ỏi từ việc làm thuê của mẹ và E. Chính vì thế mặc dù rất thích học nhưng E không có thời gian để học nên kiến thức rơi dụng dần, học yếu; phần vì mặc cảm về hoàn cảnh gia đình nên em không hoà nhập với bạn bè.

Một số biện pháp giáo dục học sinh chậm tiến của GVCN

Với lòng nhiệt tình của một GVCN lớp, với kinh nghiệm tĩnh lũy được trong quá trình công tác GVCN sẽ có những biện pháp giáo dục thích hợp với từng học sinh, cụ thể là:

Đối với em A, GVCN chủ động thường xuyên liên lạc với gia đình, gặp gỡ trao đổi với cha A để đề ra biện pháp giáo dục về đạo đức và học tập của em. GVCN đề nghị gia đình bố trí thời gian học ở nhà, có nơi học tập cho em,

đặc biệt là những thời gian em tham gia các hoạt động ngoại khoá, thời gian rỗi. Gia đình cần dành nhiều thời gian hơn cho con, quan tâm nhiều hơn đến A, uốn nắn cho con cách nói năng với người lớn tuổi, thậm chí cả cách ăn mặc khi tới trường. Ở lớp, GVCN để A ngồi cạnh những học sinh ngoan và GVCN nhờ một số học sinh bí mật quan sát A và báo cáo cho GVCN ngay những biểu hiện bất thường của A. GVCN luôn gần gũi nói chuyện, khuyên bảo và yêu cầu mỗi tuần A nộp cho GVCN một bản kiểm điểm. Nếu như trước đây tuần nào A cũng bị phê bình thì một thời gian sau đó, A tự hào khoe với GVCN

“tuần này em không có lỗi gì cô ạ”. Như vậy, A bắt đầu có những tiến bộ đáng kể. [2] [3]

Đối với em B, cha mẹ B thật sự bất ngờ về những thông báo của GVCN. Sống và làm việc trong môi trường quân đội cha mẹ B rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con và ở nhà B không có biểu hiện gì bất thường có lẽ chính vì thế mà khi đi ra lớp gặp bạn bè B mới có dịp nói nhiều và lười học. GVCN chủ động thu thập thông tin từ các giáo viên bộ môn, hàng tuần GVCN và gia đình chủ động liên lạc qua lại để nhằm thông tin kịp thời mọi hoạt động của B. Nhờ sự quan tâm hơn của gia đình và những thông tin kịp thời của GVCN, B đã cố gắng và đã có những tiến bộ rõ rệt. [2] [3]

Đối với em C, GVCN chủ động đến thăm gia đình em. GVCN đề nghị gia đình phải tìm cách kiểm tra để đánh giá đúng kiến thức của C đang ở mức nào để kịp thời bổ sung những thiếu hụt về kiến thức cho em, bố C đồng ý và nhờ một người chị họ giúp C học tập. GVCN thông báo việc C hay la cà vào quán và có thể cũng hút thuốc lá thì bố C thừa nhận vì nhà C ở gần trường đại học và C còn hay chơi với các anh sinh viên nên ít nhiều bị ảnh hưởng. GVCN giải thích việc em hay bất kỳ ai ngồi quán không phải là xấu, nhưng ở tuổi em không nên mất thời gian cho thói quen không cấn thiết như vậy. Có thể, việc ngồi quán là khởi đầu cho những chuyện rắc rối sau này,... dường như C cũng thấy những lời phân tích của GVCN có lý. GVCN đề nghị gia đình quan tâm, theo dõi em nhiều hơn, phần GVCN cũng để ý, quan sát và chủ động

(5)

nói chuyện với em nhiều hơn. Hai bên gia đình và GVCN thường xuyên liên lạc để ngăn chăn những vi phạm tương tự. [2] [3]

Đối với em D, giáo viên trực tiếp gặp gia đình để trao đổi tình hình về học sinh ở trên lớp và thông báo thời gian biểu của D khi tham gia các hoạt động của nhà trường. Bố mẹ D cũng chú ý thăm con, kiểm tra con thường xuyên hơn không nên phó thác mọi chuyện cho ông bà, ông bà cũng chú ý thời gian học tập và vui chơi của cháu hơn. Mọi sự bất thường của em đều được GVCN và gia đình thông tin kịp thời để cùng có hướng giải quyết. Nhờ sự quan tâm của gia đình và sự giáo dục chân thành của GVCN D đã có cố gắng và thay đổi thực sự.[3]

Cả B, C và D đều rất cẩu thả và lười lao động, GVCN chủ động phối hợp cùng các giáo viên bộ môn kiểm tra các em thường xuyên. Riêng giờ học của GVCN, GVCN thường xuyên kiểm tra và yêu cầu các em viết đi viết lại những nội dung bài học cho đến khi sạch đẹp.

Giờ lao động GVCN giao cho mỗi em một khu vực riêng, ai làm đạt yêu cầu thì được về.

Vì vậy, các em đã bớt cẩu thả hơn trong học tập và tích cực hơn trong các buổi lao động.

Đối với em E, khó khăn lắm GVCN mới đến thăm được gia đình em vì em luôn từ chối lời đề nghị đến thăm nhà, GVCN phải đến khi E không có mặt ở nhà để tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình em. Quả thực nhà E nghèo, cha bị thần kinh hay bỏ nhà đi, ngoài giờ đi học E còn đi lao động giúp mẹ nuôi bố và em, chiều tối về E lại đi tìm bố về để tắm, cho ăn và cho đi ngủ. Ở lớp GVCN luôn động viên an ủi em, cùng các bạn gần gũi, cởi mở để giúp E hoà nhập hơn với các hoạt động. Vào dịp lễ, tết GVCN và hội phụ huynh chủ động tặng quà cho em và gia đình, cùng quyên góp hoặc lấy quĩ lớp ứng ra, nộp trước những khoản tiền học cho em. Nhờ sự gần gũi và động viên của GVCN và các bạn trong lớp E đã dần tiến bộ cởi mở và hoà đồng hơn với các hoạt động của tập thể. [1] [3]

Trong quá trình giáo dục học sinh chậm tiến GVCN đã hình thành phương pháp giáo dục cụ thể như sau:

* GVCN dùng tập thể - một tập thể có tinh

có nhiều điển hình tốt làm môi trường lành mạnh để các em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

Đây là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt bởi một tập thể lớp vững mạnh, đoàn kết là môi trường giáo dục tốt nhất cho bạn bè giúp các em học sinh cá biệt cùng nhau tự học tập rèn luyện và tu dưỡng về mọi mặt. Do đó, những ưu điểm sẽ được phát huy, những nhược điểm được hạn chế. Để làm được điều này người GVCN cần giáo dục các em về tình yêu thương, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Tổ chức cho các em tham gia các phong trào của trường, của lớp sôi nổi và nhiệt tình. [1] [2] [3].

* Nêu gương một số cá nhân (học sinh) có đạo đức và học lực tốt, phương pháp tổ chức hoạt động và hình thành kinh nghiệm ứng xử xã hội như: giao việc, luyện tập, rèn luyện, phương pháp kích thích hoạt động, điều chỉnh hành vi ứng xử của người được giáo dục như khen thưởng, trách phạt để các em có động lực thúc đẩy vươn lên hoàn thiện bản thân.

* Hướng dẫn các em tự tu dưỡng, tự rèn luyện bản thân. Sự tự tu dưỡng theo GVCN cũng là yếu tố quyết định phẩm chất đạo đức của học sinh. Thực tế cũng đã chứng minh rằng dù giáo dục có ưu việt mấy, có đầy đủ đến đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế sự tự giáo dục của mỗi cá nhân. Chỉ có sự tự giáo dục mới có sự lĩnh hội và thực hiện tự giác các chuẩn mực đạo đức. Tính vững vàng của hành động và ý nghĩa bản chất của hành động được coi là tốt đẹp khi cá nhân giác ngộ được đạo đức.

* Phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường cùng tham gia giáo dục đạo đức cho học sinh.

Đối với lực lượng trong nhà trường: Phát huy tới mức tối đa tính chủ động trực tiếp cho tất cả các lượng giáo dục trong nhà trường, trao đổi kết hợp với cán bộ quản lý và gặp gỡ trao đổi với các giáo viên bộ môn giảng dạy ở lớp chủ nhiệm để tham gia hoạt động quản lý, xây dựng lớp, nâng cao chất lượng các môn.

Đối với lực lượng giáo dục ngoài nhà trường như cha mẹ học sinh. GVCN đã xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường. Bởi gia đình là môi trường giáo dục có ảnh hưởng lớn đến phẩm chất đạo đức của

(6)

trao đổi với phụ huynh học sinh về tinh thần học tập rèn luyện của các em ở trường.

GVCN luôn động viên thăm hỏi kịp thời xem gia đình đã tạo điều kiện cho con em mình về thời gian tự học ở nhà, nơi học tập ổn định, cách kiểm tra, giám sát như thế nào và yêu cầu gia đình luôn giữ thông tin chặt chẽ với GVCN.

Riêng đối với các em học sinh chậm tiến bộ GVCN đã tìm hiểu học sinh về mọi mặt như về hoàn cảnh gia đình, cá tính giao tiếp, quan hệ và năng khiếu, để làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự chậm tiến của các em. Sau khi tìm hiểu rõ nguyên nhân GVCN đã khéo léo kết hợp cùng với cán bộ lớp, đoàn trường và gia đình để cùng tháo gỡ những vướng mắc trong tâm lý của các em xoá bỏ mặc cảm và những định kiến sai lầm của các em để các em hoà nhập vào tập thể lớp, cùng cộng đồng để trở thành người có tư cách, phẩm chất tốt.

Những biện pháp giáo dục của GVCN đã phần nào đem lại niềm vui, sự hào hứng và nhiệt tình học tập, rèn luyện cho học sinh.

Đặc biệt là em A, em B, em C, em D, em E đã có nhiều thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực. GVCN tin rằng với sự nỗ lực của bản thân, với sự giúp đỡ của đoàn thể, của tập thể lớp các em sẽ nhanh chóng hoà nhập và trở thành những thành viên tích cực của lớp, sẽ có những bước đi đúng cho tương lai.

[1][2][3].

KẾT LUẬN

Muốn quá trình giáo dục học sinh chậm tiến đạt hiệu quả cao, người GVCN cần bám sát lớp, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh, tìm hiểu những tác động từ bạn bè và xã hội. Từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp đối với từng đối tượng. Tuy nhiên đối với những học sinh chậm tiến cách giáo dục tốt nhất là dùng tình cảm, lý lẽ và hình ảnh thuyết phục. Khi đó giáo viên phải như người cha, người mẹ, người anh, người chị lớn tuổi gần gũi, tâm sự, chỉ bảo giúp đỡ các em thấy được trách nhiệm của mình để từ đó có hướng rèn luyện và tu dưỡng. Công tác này rất vất vả, phức tạp, khó khăn đòi hỏi người GVCN không chỉ theo sát, đôn đốc giáo dục học sinh thành những người có ích cho xã hội mà người GVCN phải là người có năng lực, phẩm chất, tận tuỵ, kiên trì, có lòng bao dung, thái độ đúng đắn và gương mẫu để học sinh noi theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. GS.TS. Bùi Văn Huệ (chủ biên) (2004), Nghệ thuật ứng xử sư phạm, Nxb Đại học Sư Phạm.

2. GS.TSKH. Nguyễn Văn Hộ, GS.TSKH. Trịnh Trúc Lâm (2010), Ứng sử sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Thảo (2010), Công tác giáo dục học sinh chậm tiến bộ của lớp chủ nhiệm, Đề tài, sáng kiến kinh nghiệm, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thái Nguyên.

SUMMARY

SLOW – PROGRESS - STUDENTS EDUCATION OF HOMEROOM TEACHERS

Nguyen Thi Thao* Thai Nguyen University

Slow student learning is a responsibility of the homeroom teacher. However, this is a very difficult and complicated task. Reaching out to students and providing education is an important part of helping them have the capacity and ability to adapt and adapt to the new life. To provide good education for students in the class in general and students in slow progress in particular, the homeroom teacher have to check the basic students. After that, the teacher sees in the class the students have slow progress, slow progress in any aspects and circumstances, from which to propose active educational measures and develop appropriate work plan.

Keywords: Education, students, students, teachers, managers

Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 01/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018

*Tel: 0918 306582, Email: thaont@tnu.edu.vn

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Căn cứ vào hướng dẫn, các cơ sở giáo dục trung học chỉ đạo tổ, nhóm chuyên môn và giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học chi tiết bảo đảm cân đối giữa nội dung

Chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch năm học linh hoạt, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ em, tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em đáp ứng

a) Xây dựng kế hoạch bài dạy (giáo án) bảo đảm các yêu cầu về phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, kiểm tra, đánh giá, thiết bị dạy học và học liệu, nhằm phát

` - Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp và hiệu quả.. - Xây dựng kế hoạch hoạt động của cá

a) Xây dựng kế hoạch bài dạy (giáo án) bảo đảm các yêu cầu về phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, kiểm tra, đánh giá, thiết bị dạy học và học liệu, nhằm phát triển

Phòng Giáo dục và Đào tạo xây dựng Kế hoạch tổ chức Lễ biểu dương và khen thưởng những học sinh đã đạt giải trong Kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh năm học 2021-2022;

- Các Phòng GD&ĐT Xây dựng kế hoạch và đôn đốc các cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học, THCS nhập số liệu vào hệ thống EMIS online theo đúng tiến độ, bảo đảm tính

Căn cứ vào hướng dẫn, các cơ sở giáo dục trung học chỉ đạo tổ, nhóm chuyên môn và giáo viên xây dựng kế hoạch dạy học chi tiết bảo đảm cân đối giữa nội dung và thời