• Không có kết quả nào được tìm thấy

Tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp

Trong tài liệu LỜI MỞ ĐẦU (Trang 30-33)

CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI

1.3. TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ

1.3.5. Tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp

Đối tƣợng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra cần phải đƣợc tính giá thành và giá thành đơn vị. Khác với hạch toán chi phí sản xuất, công việc tính giá thành là xác định giá thực tế từng loại sản phẩm và toàn bộ sản phẩm đã đƣợc hoàn thành. Xác định đối tƣợng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm , bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất thực tế của doanh nghiệp . Các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất, tính chất sản xuất, và sử dụng của chúng để xác định đối tƣợng tính giá thành cho phù hợp.

Trong doanh nghiệp xây lắp, đối tƣợng tính giá thành thƣờng trùng hợp với đối tƣợng tập hợp chi phí sản xuất đó có thể là công trình, hạng mục công trình hay khối lƣợng xây lắp hoàn thành bàn giao.

Trên cơ sở đối tƣợng tính giá thành đã đƣợc xác định, căn cứ vào chu kỳ sản xuất sản phẩm và cách tổ chức công tác kế toán, doanh nghiệp xác định kỳ

tính giá thành để đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp. Kỳ tính giá thành đƣợc xác định tùy thuộc vào tính chất sản phẩm cụ thể:

+ Đối với các đơn vị đặt hàng, công việc đƣợc coi là hoàn thành thì kỳ tính giá thành bắt đầu từ khi sản xuất theo đơn đặt hàng đến khi hoàn thành đơn đặt hàng đó.

+ Đối với hạng mục công trình xây dựng thì kỳ tính giá thành phụ thuộc vào kỳ thanh toán sản phẩm hoàn thành cho bên giao thầu. Vì vậy, sau khi công trình hoàn thành đƣợc nghiệm thu thanh toán mới tính giá thành thực tế của sản phẩm.

+ Đối với công trình lớn, thời gian thi công kéo dài thì chỉ khi nào một bộ phận công trình hoàn thành, có giá trị sử dụng và đƣợc bàn giao thanh toán thì mới tính giá thành thực tế sản phẩm.

Nhƣ vậy, căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất sản phẩm mà kỳ tính giá thành có thể là thời điểm cuối mỗi tháng, cuối mỗi quý, cuối mỗi năm hoặc là thời điểm kết thúc chu kỳ sản xuất sản phẩm đã hoàn thành…

1.3.5.2. Phương pháp tính giá thành

a/ Phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp)

Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng chủ yếu trong các doanh nghiệp xây dựng. Vì sản phẩm xây lắp đơn chiếc nên đối tƣợng tập hợp chi phí cũng là đối tƣợng tính giá thành, nếu sản phẩm dở dang không đáng kể thì chi phí sản xuất đã đƣợc tập hợp đƣợc trong kỳ cho mỗi đối tƣợng tính giá thành là tổng giá thành của sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Theo phƣơng pháp này, toàn bộ chi phí phát sinh đƣợc tập hợp cho công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình.

Trong trƣờng hợp công trình, hạng mục công trình chƣa hoàn thành toàn bộ mà có khối lƣợng xây lắp hoàn thành bàn giao thì:

Z = Ddk + C – Dck Trong đó:

Z : Giá thành của khối lƣợng xây lắp hoàn thành bàn giao.

Dđk, Dck : Chi phí dở dang đầu kỳ, cuối kỳ.

C : Chi phí phát sinh trong kỳ.

Nếu các công trình, hạng mục công trình có thiết kế khác nhau nhƣng cùng thi công trên một địa điểm do một đội công trình sản xuất đảm nhiệm và không có điều kiện theo dõi quản lý riêng việc sử dụng các chi phí khác nhau cho từng công trình, hạng mục công trình thì chi phí sản xuất đã tập hợp đƣợc trên toàn bộ công trình, hạng mục công trình đều phải đƣợc phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình. Khi đó, giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình là:

Gdti xH

Trong đó: H : Tỉ lệ phân bổ giá thành thực tế.

C : Tổng chi phí thực tế của các công trình, hạng mục công trình Gdt : Tổng dự toán của tất cả các công trình

Gdti : Giá trị dự toán của công trình thứ i b/ Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng

Phƣơng pháp này thƣờng đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp doanh nghiệp nhận thầu các công trình theo đơn đặt hàng, khi đó đối tƣợng tập hợp chi phí là từng đơn đặt hàng, đối tƣợng tính giá thành là đơn đặt hàng đã hoàn thành. Chu kỳ sản xuất của mỗi đơn đặt hàng thƣờng dài, kỳ tính giá thành phù hợp với chu kỳ sản xuất. Chỉ khi nào đơn đặt hàng hoàn thành mới tính giá thành. Kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo.

Theo phƣơng pháp này, kế toán giá thành mở cho mỗi đơn đặt hàng một bảng tính giá thành. Hàng tháng căn cứ vào chi phí thực tế phát sinh đƣợc tập hợp lại theo từng đơn đặt hàng và khi nào hoàn thành công trình thì chi phí sản xuất tập hợp đựoc cũng chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó. Trong trƣờng hợp nếu đơn đặt hàng chƣa hoàn thành thì toàn bộ chi phí tập hợp đƣợc đến thời điểm đó của từng đơn đặt hàng sẽ là chi phí của khối lƣợng xây lắp dở dang.

H = C

Gdt x 100%

c/ Phương pháp tổng cộng chi phí

Phƣơng pháp này thƣờng đƣợc áp dụng với các công trình lớn, phức tạp, công trình phải qua nhiều giai đoạn thi công. Theo phƣơng pháp này thì giá thành thực tế của toàn bộ công trình, hạng mục công trình đƣợc tính nhƣ sau :

Z = C1 + C2 + C3 + … + Cn + DĐK - DCK.

Trong đó : Z : Giá thành thực tế của toàn bộ công trình, hạng mục công trình.

C1 + C2 + C3 : Chi phí xây lắp của các giai đoạn.

DĐK, DCK : Chi phí thực tế sản phẩm dở dang đầu kỳ, dở dang cuối kỳ.

d/ Phương pháp tính giá thành theo định mức

Đây là phƣơng pháp giá thành dựa vào định mức tiêu hao về vật tƣ, lao động, các dự toán về chi phí phục vụ sản xuất, quản lý, khoản chênh lệch do những thay đổi định mức cũng nhƣ những chênh lệch trong quá trình so với định mức.

- Theo phƣơng pháp này giá thành thực tế đƣợc xác định nhƣ sau : Giá thành thực

tế của sản phẩm xây lắp

=

Giá thành định mức sản phẩm xây lắp

Chênh lệch thay đổi định mức

Chênh lệch do thoát ly định

mức

1.4. TỔ CHỨC HỆ THỐNG SỔ SÁCH KẾ TOÁN ĐỂ HẠCH TOÁN CHI

Trong tài liệu LỜI MỞ ĐẦU (Trang 30-33)