• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.5. ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA KỸ THUẬT HYBRID

4.5.1. Ưu điểm

Cho phép lựa chọn biện pháp gây mê có nguy cơ thấp nhất

Chỉ có 3BN chiếm 6,0% được sử dụng gây mê toàn thân cho Hybrid theo biểu đồ 3.9, đa phần BN được sử dụng các biện pháp gây tê vùng như tê tủy sống và tê tại chỗ để hạn chế các tai biến có thể gặp của mê nội khí quản.

Sự linh hoạt trong chỉ định và phương pháp điều trị

Có thể chỉ định Hybrid cho nhiều loại tổn thương mạch máu khác nhau, áp dụng linh hoạt cho BN cấp cứu hoặc có kế hoạch. Tổn thương mạch có thể là thương tổn hẹp, tắc hoàn toàn, huyết khối mới gây tắc cầu nối cũ. Phạm vi áp dụng cho tất cả các tầng tổn thương của BĐMCD. Trong nghiên cứu của mình, Argyriou C và cộng sự còn áp dụng Hybrid cho 28 BN (31 chi) có thiếu máu chi cấp tính với kết quả tốt [144]. Chúng tôi cũng áp dụng phẫu thuật lấy huyết khối và chụp mạch cho 8 BN trong đó có 7 BN có tổn thương hẹp hoặc tắc của mạch máu ở tầng trên hoặc dưới thương tổn (bảng 3.8).

Tam Huynh va Carlos Bechara đã thống kê 5 nhóm chỉ định thường gặp nhất trong tổng hợp các nghiên cứu về Hybrid, bao gồm:

1. Đặt stent ĐM chậu và bóc nội mạc ĐM đùi chung một bên cho tổn thương ĐM chậu lan xuống ĐM đùi chung.

2. Đặt stent ĐM chậu một bên và bắc cầu mạch máu dưới bẹn cho tổn thương nhiều tầng cùng một chi, ĐM đùi chung còn tốt.

3. Bóc nội mạc ĐM đùi chung và can thiệp nội mạch các tổn thương phía dưới: Áp dụng tốt cho các tổn thương thiếu máu chi trầm trọng nhiều tầng mà vị trí tổn thương tầng cao nhất là ĐM đùi chung.

4. Đặt stent ĐM chậu và bắc cầu đùi đùi: Cho tổn thương ĐM chậu 2 bên mà một bên có tắc hoàn toàn mạn tính CTO.

5. Can thiệp ĐM đùi nông và bắc cầu ngoại vi: Cho các tổn thương mạch máu đa tầng dưới ĐM đùi chung [145].

Có thể nhận thấy trên tất cả các tầng tổn thương đều có thể lựa chọn phẫu thuật hay can thiệp nội mạch, lựa chọn chỉ định nào đã được chúng tôi phân tích trong phần 4.3.3 và 4.3.5.

Sự linh hoạt trong trình tự điều trị

Lựa chọn phẫu thuật hoặc can thiệp trong Hybrid có thể rất thay đổi:

Phẫu thuật trước/ can thiệp trước hoặc luân phiên tiến hành. Thất bại của kỹ thuật này có thể thay thế bằng kỹ thuật khác. Các BN có đường vào là mạch nhân tạo trong nghiên cứu của chúng tôi có thể tiến hành phẫu thuật trước để tạo đường vào cho can thiệp, sau can thiệp lại hoàn thành nốt các quy trình phẫu thuật (ảnh 3.1). Khi phẫu thuật hoặc can thiệp thất bại/ có biến chứng sẽ có lựa chọn thay đổi phương pháp điều trị ngay trong Hybrid (ví dụ như 2 BN tách thành động mạch theo bảng 3.9).

Tận dụng tối đa vai trò của chụp mạch trong Hybrid

Giúp chẩn đoán tổn thương mà siêu âm/ chụp cắt lớp chưa rõ ràng: theo Dominik Fleischmann và cộng sự, các tổn thương khó đọc nhất khi chụp cắt lớp vi tính mạch máu là sự có mặt của các mảng vữa xơ vôi hóa cũng như của stent kim loại. Hình ảnh của phim chụp sẽ bị nhiễu (artefact) và chỉ có thể hạn chế nhiễu ảnh bằng phim dựng hình dọc tuy nhiên không loại trừ hoàn toàn được yếu tố nhiễu này [146]. Siêu âm cũng sẽ gặp khó khăn khi đánh giá thành mạch tại các vị trí có vôi hóa, có kim loại (vị trí có stent do hiện tượng

cản âm). Chúng tôi lựa chọn kích thước của vật tư cụ thể trong nghiên cứu dựa vào chụp mạch trong Hybrid, là thông số khách quan nhất, tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán mạch máu.

Hybrid không chỉ giúp tiết kiệm thời gian chẩn đoán (đánh giá tổn thương bằng chụp mạch trong khi phẫu thuật) mà còn giúp đánh giá kết quả điều trị ngay sau đó. Việc đánh giá kết quả được căn cứ vào khẩu kích thành mạch thay đổi ngay sau can thiệp/ phẫu thuật, sự lưu thông và tốc độ lưu thông của của dòng máu qua vị trí phẫu thuật và can thiệp. Một vai trò quan trọng nữa của Hybrid là cho phép đánh giá tuần hoàn ngoại biên, đánh giá được các mạch máu nhỏ, tuần hoàn vi mạch, thời gian máu về tĩnh mạch, các thông số không thể đánh giá được với các biện pháp như siêu âm Doppler, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ dựng hình mạch máu.

Hình 4.8: Chụp kiểm tra kết quả sau Hybrid (BN số 6)

Stent ĐM chậu P thông tốt, cầu nối đùi đùi thông tốt

Ngoài ra, chụp mạch còn cho phép đánh giá chức năng thận một cách thương đối khi thấy thuốc cản quang được đào thải ra qua bể thận, niệu quản và bàng quang.

Hình 4.9: Đánh giá tưới máu bàn chân sau Hybrid (BN số 23)

ĐM chày sau thông tốt, các mạch máu bang hệ hiện hình tốt

Balaz và cộng sự [45] đã thống kê 7 ưu điểm của điều trị Hybrid bao gồm:

1. Không có trì hoãn trong phục hồi lưu thông mạch máu cho toàn bộ chi.

2. Phẫu thuật có thể thay thế ngay lập tức phương pháp can thiệp nội mạch không phù hợp và ngược lại.

3. Biến chứng liên quan đến tạo hình mạch máu được hạn chế.

4. Biến chứng nhiễm trùng liên quan đến hai biện pháp điều trị riêng rẽ được hạn chế.

5. Không cần thay đổi liệu trình thuốc giữa các biện pháp điều trị.

6. Thời gian nằm viện ngắn hơn, chi phí có khả năng thấp hơn.

7. Việc sử dụng chụp mạch và các đo đạc dòng chảy sau Hybrid cho phép bác sĩ đánh giá và điều chỉnh lưu thông dòng máu tại tất cả các tầng tổn thương.

Trong tài liệu ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (Trang 109-113)