• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Chẩn đoán và đánh giá bệnh nhân trước mổ

* Lâm sàng:

Khai thác bệnh sử: Nguyên nhân chấn thương, thời gian bị chấn thương, Thăm khám lâm sàng bằng các test như Lachman, ngăn kéo trước, Pivot shift, Mc Murray…

- Test Lachman: Bệnh nhân nằm ngửa, thả lỏng toàn thân, gối gấp 300. Người khám một tay giữ xương chày với ngón cái đặt ở khe khớp, tay kia giữ lấy đùi bệnh nhân trên xương bánh chè vài xăng-ti- mét. Tay giữ xương chày đẩy xương chày ra trước. Mức độ di lệch được so sánh với bên lành và chia ra 4 mức độ:

Độ 1: âm tính, mâm chày di lệch ra trước < 3mm Độ 2: di lệch 3- 5mm

Độ 3: di lệch 6-10 mm Độ 4: di lệch trên 10mm

Tính chất điểm dừng của chuyển động mâm chày ra trước được mô tả là

“yếu” hoặc là “chặt” (Soft Endpoint hoặc Firm Endpoint). Khi sự di động của

mâm chày dừng lại đột ngột thì gọi là điểm dừng chắc, nếu không thì là điểm dừng yếu. Điểm dừng yếu là biểu hiện đứt DCCT và được người bệnh cảm nhận rõ khi so sánh với gối bên lành.

- Test Ngăn kéo trước: Người bệnh nằm ngửa, gối gấp 900, thả lỏng toàn thân. Người khám ngồi đè lên một phần mu chân của người bệnh, hai bàn tay ôm lấy đầu trên xương chày, ngón trỏ kiểm tra các cơ Hamstring thả lỏng hay chưa, sau đó kéo mạnh đầu trên xương chày ra trước. Hai ngón cái đặt ở khe khớp để cảm nhận sự di lệch mâm chày ra trước. Mức độ di lệch ra trước của mâm chày được so sánh với gối bên lành và chia ra 4 mức độ tương tự test Lachman.

- Test Lateral Pivot Shift: Tên nghiệm pháp này được xuất phát từ than phiền của người chơi khúc côn cầu “When I pivot, my knee shift”. MacIntosh nhận thấy cảm nhận của người bệnh về sự thay đổi vị trí và sự trượt của gối liên quan đến sự tổn thương DCCT. Tiến hành: Người bệnh nằm ngửa, thả lỏng toàn thân, người khám đứng cùng bên. Một tay người khám giữ lấy bàn chân người bệnh xoay vào trong, tay kia đặt ở mặt ngoài gối đẩy gối vẹo ngoài, sau đó gấp gối từ từ. Mâm chày ngoài bán trật ra trước sẽ trở lại vị trí bình thường khi gấp gối 300 cùng với sự va chạm hai đầu xương mà người bệnh nhận thấy được. Kết quả bao gồm 4 mức độ:

Độ 1: âm tính Độ 2: trượt nhẹ

Độ 3: Rõ sự va chạm của hai đầu xương Độ 4: Rất rõ sự trật mâm chày, tiếng kêu rõ.

- Test Mc Murray: Đánh giá tổn thương sụn chêm. Sụn chêm trong:

Người khám một tay dùng ngón cái và ngón giữa đặt vào khe khớp giữ gối người bệnh, tay kia nắm lấy bàn chân gấp gối tối đa đồng thời xoay ngoài cẳng chân. Duỗi gối từ từ sẽ cảm nhận thấy tiếng “click” và người bệnh cảm nhận đau. Sụn chêm ngoài thì xoay cẳng chân vào trong và tiến hành như thế.

Theo kinh nghiệm một số tác giả thì khi tiếng “click” xảy ra ngay khi bắt đầu duỗi gối là tổn thương phần sau sụn chêm, còn nếu tiếng “click” xảy ra khi duỗi gối nhiều hơn là tổn thương phần trước sụn chêm.

- Nghiệm pháp nhảy một chân: Bệnh nhân nhảy xa bằng một chân, mỗi chân nhảy 3 lần rồi tính giá trị trung bình, so sánh với chân lành tinh tỉ lệ phần trăm. Đánh giá thành 4 mức độ: ≥ 90%; 76- 89%; 50- 75%; < 50%.

- Đánh giá chức năng khớp gối theo thang điểm Lysholm, IKDC

* Cận lâm sàng:

- Xquang khớp gối thường quy và có treo tạ lượng hóa mức độ di lệch ra trước của mâm chày, ….

- Phim cộng hưởng từ khớp gối: đánh giá hình ảnh tổn thương DCCT, sụn chêm, tổn thương sụn khớp, các cấu trúc giải phẫu khớp gối ….

* Để phục vị cho mục tiêu 1 chúng tôi tiến hành đo chiều cao, cân nặng người bệnh tại thời điểm thăm khám và đo kích thước mảnh ghép trong khi phẫu thuật.

- Đo chiều cao, cân nặng người bệnh theo kỹ thuật cân đo nhân trắc của viện dinh dưỡng quốc gia.

+ Cân nặng người bệnh trên cân y tế, đơn vị tính là ki- lô gam, giá trị lấy đến một chữ số thập phân. Người bệnh đứng trên mặt cân với quần áo mỏng(bỏ áo khoác, áo rét, giày, dép…)

+ Chiều cao đo bằng thước đo chiều cao với kỹ thuật 5 chạm và một đường ngang, người bệnh bỏ giày, dép (Hình 2.1). Đơn vị tính là cen-ti mét, giá trị tính đến 1 chữ số thập phân

Hình 2.1. Hình minh họa kỹ thuật đo chiều cao (Trích từ nguồn:

http://viendinhduong.vn/FileUpload/Documents/TL%20PEM/

Kythuatcandonhantrac_MTBT.pdf)

- Đo kích thước mảnh ghép trong phẫu thuật: Gân cơ bán gân và gân cơ thon sau khi được lấy hết mô cơ, tỉa gọn, mỗi gân gập bốn và đo độ dài, đường kính riêng rẽ.

+ Độ dài mảnh ghép đo bằng thước đo chiều dài trên bàn chuẩn bị gân, đơn vị tính là mm.

+ Đường kính mảnh ghép đo bằng ống đo đường kính cung cấp bởi hãng Smith& Nephew. Đây là các ống kim loại có đường kính trong lòng ống tăng dần lên mỗi 0,5mm. Đường kính mảnh ghép được tính là đường kính của ống nhỏ nhất mà gân có thể kéo qua được. Đơn vị tính là mi- li –mét, giá trị lấy 1

chữ số thập phân. Do đầu xa mảnh ghép (phần trong đường hầm xương chày) thường to hơn và thêm chỉ tết gân, nên chúng tôi lấy đường kính đầu gần mảnh ghép (phần trong đường hầm xương đùi) là đường kính mảnh ghép.

Hình 2.2. Ảnh chụp bộ dụng cụ đo kích thước mảnh ghép.

2.2.2. Kỹ thuật phẫu thuật tái tạo DCCT hai bó bằng mảnh ghép gân bán