• Không có kết quả nào được tìm thấy

Chương 4: BÀN LUẬN

4.3. ĐẶC ĐIỂM CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH

4.3.3. Chụp cộng hưởng từ

Phim chụp cộng hưởng từ ít có giá trị trong chẩn đoán hình thái học khối u, nhưng nó mang lại nhiều thông tin chính xác về chẩn đoán và tiên lượng vì cho biết chính xác vị trí và mối liên quan của khối u với cấu trúc não, mạch máu xung quanh. Chụp cộng hưởng từ có thuốc đối quang từ cho hình ảnh rõ nét hơn về vị trí, kích thước, ranh giới khối u và sự xâm lấn vào cấu trúc xung quanh, đặc biệt hình ảnh T2W cho biết mức độ phù não quanh u, các nang dịch, giúp cho phẫu thuật viên lựa chọn đường mổ một cách hợp lý, thuận lợi nhất. Về tiên lượng, hình ảnh cộng hưởng từ cho biết mức độ xâm lấn của u vào các vùng chức năng quan trọng, các mạch máu lớn, xoang tĩnh mạch dọc dưới, xoang thẳng. Dựa trên hình ảnh bắt thuốc trên phim, phẫu thật viên có thể đánh giá sơ bộ được tính chất mô bệnh học, mức độ lành tính hay ác tính của u để lựa chọn phương án điều trị [138],[139]. Tuy nhiên, cộng hưởng từ có những hạn chế, không chỉ định được phương pháp này cho những bệnh nhân có kim loại trong cơ thể (máy tạo nhịp tim, phương tiện kết xương, răng giả kim loại, mảnh kim khí trong cơ thể…) [67],[81],[138].

Chúng tôi chụp cộng hưởng từ có và không có thuốc cản quang cho tất cả 57 trường hợp. Tín hiệu u thường là hỗn hợp, không đồng nhất (vừa tăng vừa giảm tín hiệu, có nang trong u): 36 bệnh nhân có tăng tín hiệu trên T2W chiếm 63,1%, giảm tín hiệu trên T1W 34 bệnh nhân (59,6%), phù hợp với tính chất đa dạng về mô bệnh học trong nghiên cứu (Bảng 3.12). Cấu trúc u thường là đặc kèm theo nang to nhỏ (63,1%), ổ đặc đơn thuần 36,9%. Vôi hóa trong u thành mảng hay đốm gặp 18 bệnh nhân (31,5%). Chảy máu trong u gặp ở 08 bệnh nhân (14%), trong đó có 01 bệnh nhân kèm chảy máu não thất (1,8%). U não thất bên có sự đa dạng về tế bào nên hình ảnh cộng hưởng từ

thường là không điển hình, nó là sự kết hợp của các loại tín hiệu theo tính chất phức tạp của giải phẫu bệnh.

Tương ứng với kết quả chụp CLVT, trên phim CHT (Bảng 3.11): số bệnh nhân có u ≥ 4 cm chiếm tỉ lệ cao nhất với 44/57 bệnh nhân (77,2%), cao hơn đáng kể so với nhóm có u < 4 cm (22,8%). Ngoài ra, có tới 21 u (36,8%) có kích thước khổng lồ (> 6 cm). Phần lớn (98,2%) u bắt thuốc đối quang từ, từ ít đến vừa và mạnh, tính chất ngấm có thể đều hoặc không đều, trong đó có 52,7% bắt thuốc mạnh. U não thất bên chèn ép vào đường dẫn dịch não tủy gây giãn não thất một bên, giãn (một phần hoặc toàn bộ) 57,8% do u có đường kính lớn. Phần lớn khu trú trong khoang não thất bên (86%), đây đều là những u lành tính độ mô học thấp, có ranh giới rõ (84,2%).

Đối chiếu với kết quả mô bệnh học một số khối u hay gặp (Bảng 3.16) chúng tôi nhận thấy đặc điểm u trên phim chụp cũng có kết quả tương tự với các tác giả khác [41],[82],[94],[140]:

- Có 20 khối u loại u màng não ở não thất bên: u nằm chủ yếu ngã ba não thất, bên trái nhiều hơn bên phải. Kích thước u thường lớn hơn 4 cm, có cấu trúc đặc, ranh giới rõ. U giảm hoặc đồng tín hiệu trên T1W, tăng hoặc đồng tín trên T2W, bắt thuốc mạnh và đồng đều, có vôi hóa hoặc đôi khi gặp chảy máu trong u. U ít gây giãn não thất hoặc chỉ giãn một bên.

Hình 4.1. Khối u loại u màng não trong não thất bên (BA: BN Lê Thị Phương Ng., 25T, SBA 953D33).

- Có 11 khối u loại u tế bào thần kinh trung ương ở não thất bên: u thường nằm ở thân não thất hoặc hai bên não thất, ranh giới rõ, kích thước > 4 cm. U có cấu trúc hỗn hợp gồm phần đặc chứa nang dịch nhỏ bên trong, tín hiệu không đồng nhất, giảm hoặc đồng tín hiệu không đều trên T1W, tăng hoặc đồng tín hiệu trên T2W, bắt thuốc mức độ khác nhau và không đều, vôi hóa trong u. Đôi khi u xâm lấn xuống não thất 3 hoặc vùng não lân cận, u gây giãn não thất toàn bộ hoặc một bên.

Hình 4.2. Khối u loại u tế bào thần kinh trung ương trong não thất bên (BA: BN Trương Thị K., 29T, SBA 30393D33).

- Có 08 khối u loại u màng não thất trong não thất bên: u nằm một hoặc hai bên não thất, u ở sừng trán và thân não thất bên, ranh giới rõ, kích thước thường > 4 cm. U có cấu trúc hỗn hợp, tín hiệu không đều, bắt thuốc ít hoặc vừa, có thể gặp u phát triển ra vùng xung quang, ít vôi hóa, không gây giãn não thất hoặc giãn não thất một bên.

Hình 4.3. Khối u loại u màng não thất trong não thất bên (BA: BN Đỗ Quốc L., 34T, SBA 5650D33).

- Có 05 khối u loại u tế bào thần kinh đệm ít nhánh trong não thất bên:

u thường nằm ở thân não thất, ranh giới rõ, kích thước lớn, cấu trúc hỗn hợp.

U có tín hiệu không đều, giảm hoặc đồng tín hiệu trên T1W, tăng hoặc đồng tín hiệu trên T2W, vôi hóa trong u, đôi khi gặp chảy máu trong u. U gây giãn não thất toàn bộ hoặc một bên, u xâm lấn thể chai hoặc thùy trán, bắt thuốc vừa hoặc ít, không đều.

Hình 4.4. Khối u loại u tế bào thần kinh đệm ít nhánh trong não thất bên (BA: BN Hà Hồng S., 33T, SBA 18702D33).

- Có 07 khối u, trong đó 03 khối u loại u nhú đám rối mạch mạc, 02 khối loại u dưới màng não thất, 02 khối loại u tế bào hình sao khổng lồ với hình thái tương đối điển hình trên phim cộng hưởng từ:

Hình 4.5. Khối u loại u nhú đám rối mạch mạc trong não thất bên (BA: BN Hoàng Hải N., 14 tháng, SBA 40026D33).

Hình 4.6. Khối u loại u tế bào hình sao khổng lồ trong não thất bên (BA: BN Nguyễn Hoàng Y., 14T, SBA 29214D33).

Hình 4.7. Khối u loại u dưới màng não thất trong não thất bên (BA: BN Bùi Đại Ph., 34T, SBA 29214D33).

* Khó khăn trong chẩn đoán hình thái học trên phim CLVT, CHT

Trong 57 bệnh nhân, chúng tôi thấy cần chẩn đoán phân biệt các loại u:

u màng não thất, u dưới màng não thất, u tế bào thần kinh đệm ít nhánh, u tế bào thần kinh,... Các loại u này có hình ảnh trên phim chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ tương đối giống nhau. Mặc dù một số các tác giả như Gokalp [2], Koos [13], Goergen [27] cho rằng, có thể chẩn đoán hình ảnh khối u dựa vào tuổi, vị trí khối u và đặc điểm từng loại u trên phim chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ nhưng do số liệu chúng tôi ít và u chủ yếu nằm ở thân não thất bên nên chưa thấy có sự khác biệt.

4.4. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ