• Không có kết quả nào được tìm thấy

Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện TT-GDSK ở

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1.4. Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện TT-GDSK ở

3.1.4. Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện TT-GDSK ở tuyến huyện

- Thuận lợi của cá nhân: có sự phối hợp với các ban ngành (30,8%);

đồng nghiệp nhiệt tình, có trách nhiệm (22,9%); có sự chỉ đạo của cấp trên (21,6%). Những thuận lợi như cán bộ có kiến thức, kỹ năng TT-GDSK, có trình độ chuyên môn chỉ có < 20% số người được phỏng vấn đề cập đến.

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy hoạt động TT-GDSK tại tuyến cơ sở đã nhận được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp.

Hộp 1 – Thuận lợi chung trong hoạt động TT – GDSK tại tuyến cơ sở

“Hoạt động TT-GDSK được coi là nhiệm vụ hàng đầu trong mười nội dung CSSKBĐ nên được quan tâm, điều này được thể hiện trong các văn bản của ngành y tế và các cơ sở y tế” (TLN cán bộ Trung tâm TT-GDSK Trung Ương).

“Tổ chức chuyên môn thực hiện và quản lý hoạt động TT-GDSK ở tuyến huyện đã được hình thành và mang tính pháp lý, có hướng dẫn cụ thể về biên chế, tổ chức của phòng TT-GDSK” (PVS lãnh đạo Trung tâm TT-GDSK tỉnh).

“Dự án ADB, Ngân hàng Thế giới, UNICEF,…đã hỗ trợ cho chúng tôi rất nhiều trong việc đào tạo kỹ năng TT-GDSK cho cán bộ hay hỗ trợ về tài liệu TT-GDSK” (PVS lãnh đạo phòng TT-GDSK).

“Phòng TT-GDSK được sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp về chuyên môn của trung tâm TT-GDSK tỉnh và do trung tâm TT-GDSK tỉnh kiểm tra, đánh giá, chấm điểm thi đua hàng năm” (PVS lãnh đạo phòng TT-GDSK).

“Ban giám đốc TTYT huyện chỉ đạo công tác kế hoạch cho hoạt động TT-GDSK, các huyện thường lồng ghép và phối hợp hoạt động TT-GDSK vào các hoạt động khác của TTYT huyện” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

“Trong hoạt động TT-GDSK từ trước tới nay đã có sự phối hợp của chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Phòng văn hóa thông tin; Đài phát thanh; Hội chữ thập đỏ; Đoàn thanh niên...” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

Để hoạt động TT-GDSK được thực hiện tốt tại tuyến y tế cơ sở luôn cần có sự chỉ đạo về mọi mặt của cấp trên và lãnh đạo TTYT huyện.

Hộp 2 – Thuận lợi cá nhân trong hoạt động TT – GDSK tại tuyến cơ sở

“Phòng TT-GDSK được sự chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp về chuyên môn của trung tâm TT-GDSK tỉnh và do trung tâm TT-GDSK tỉnh kiểm tra, đánh giá, chấm điểm thi đua hàng năm” (PVS lãnh đạo phòng TT-GDSK).

“Ban giám đốc TTYT huyện chỉ đạo công tác kế hoạch cho hoạt động TT-GDSK, các huyện thường lồng ghép và phối hợp hoạt động TT-GDSK vào các hoạt động khác của TTYT huyện” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

“Trong hoạt động TT-GDSK từ trước tới nay đã có sự phối hợp của chính quyền, các ban ngành đoàn thể như: Phòng văn hóa thông tin; Đài phát thanh; Hội chữ thập đỏ; Đoàn thanh niên...” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

3.1.4.2. Những khó khăn trong thực hiện TT-GDSK ở tuyến huyện

Bảng 3.7. Khó khăn trong thực hiện hoạt động TT-GDSK (n=227)

Khó khan

Đô thị (n=74)

Đồng bằng (n=56)

Miền núi (n=97)

Chung (n=227) SL % SL % SL % SL % Khó khăn chung:

Thiếu nhân lực 58 78,4 38 67,9 65 67,0 161 70,9 Thiếu phương tiện, TTB 41 55,4 29 51,8 40 41,2 110 48,5 Thiếu tài liệu/ấn phẩm 47 63,5 33 58,9 45 46,4 125 55,1 Thiếu cơ sở vật chất 26 35,1 20 35,7 21 21,6 67 29,5 Thiếu kinh phí 19 25,7 13 23,2 29 29,9 11 4,8 Yếu về tổ chức, quản lý 4 5,4 2 3,6 2 2,1 6 2,6 Khó khăn từ phía cá nhân:

Thiếu điều kiện làm việc 72 97,3 48 85,7 75 77,3 195 85,9 Thiếu KT, KN về

TT-GDSK

65 87,8 48 85,7 91 93,8 204 89,9 Trình độ dân trí thấp 28 37,8 10 17,9 53 54,6 91 40,1 Phải kiêm nhiệm nhiều việc 13 17,6 19 33,9 14 14,4 46 20,3 Địa bàn đi lại khó khan 6 8,1 9 16,1 23 23,7 38 16,7

Nhận xét:

- Khó khăn chung phổ biến nhất của các huyện trong hoạt động TT-GDSK là thiếu nhân lực (70,9%), trong đó tình trạng thiếu ở đô thị là cao nhất (78,4%); thiếu trang thiết bị, phương tiện (48,5%); thiếu tài liệu/ấn phẩm (55,1%).

- Khó khăn từ phía cá nhân: hầu hết cán bộ được phỏng vấn nêu khó khăn là thiếu điều kiện làm việc (85,9%), trong đó cao nhất là các huyện của hai thành phố (97,3%); thiếu kiến thức, kỹ năng về TT-GDSK (89,9%); riêng ở các huyện của hai tỉnh miền núi, khó khăn do trình độ dân trí thấp cũng chiếm tỷ lệ cao (54,6%).

Kết quả nghiên cứu định tính cho thấy nhân lực thực hiện hoạt động TT-GDSK luôn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc.

Hộp 3 – Thực trạng nhân lực phòng TT-GDSK

“…Nhiều huyện chỉ có một cán bộ phụ trách công tác TT-GDSK” (PVS lãnh đạo trung tâm TT-GDSK tỉnh Hà Nam).

“…Có cán bộ chưa sắp xếp được vào vị trí nào thì tạm thời đưa vào làm công tác TT-GDSK” (PVS lãnh đạo TTYT huyện).

“Trình độ cán bộ phụ trách công tác TT-GDSK chưa cao, nhiều huyện không có cán bộ có trình độ đại học nên bố trí cán bộ trung cấp phụ trách phòng TT-GDSK” (PVS lãnh đạo trung tâm TT-GDSK tỉnh Hà Nam).

“Công tác TT-GDSK còn rất mới mẻ với một số cán bộ được phân công nhiệm vụ tại các phòng TT-GDSK” (TLN Trung tâm TT-GDSK tỉnh Hà Nam).

Nguồn lực đầu tư cho hoạt động TT-GDSK còn rất hạn chế: Điều kiện cơ sở vật chất khó khăn, nhiều nơi chưa có phòng làm việc riêng phải ghép với khoa/phòng khác; trang thiết bị không đầy đủ; kinh phí cho hoạt động TT-GDSK hầu như không có, các hoạt động TT-TT-GDSK được thực hiện dựa vào kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia phân cho tỉnh, huyện và xã.

Hộp 4 – Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí cho hoạt động TT-GDSK

“Điều kiện cơ sở vật chất còn hạn chế, phân tán, địa điểm tạm bợ, nhiều phòng TT-GDSK chưa có chỗ làm việc độc lập phải làm nhờ, không có góc truyền thông hoặc góc truyền thông không đạt yêu cầu” (TLN cán bộ trung tâm TT-GDSK tỉnh Hà Nam).

“Nhiều phòng TT-GDSK chưa có các trang thiết bị thiết yếu để thực hiện nhiệm vụ chuyên môn như máy chiếu, máy tính, máy ảnh, máy quay phim, loa đài, tăng âm..” (TLN cán bộ trung tâm TT-GDSK tỉnh).

“Tài liệu/ấn phẩm cho TT-GDSK chủ yếu là do tuyến trên cấp, chưa tự sản xuất được. Tài liệu do nhiều nguồn khác nhau cung cấp nên không đồng bộ và địa phương không chủ động được” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

“Các chương trình mục tiêu có kinh phí lại sử dụng riêng theo hướng dẫn của từng chương trình. Phòng TT-GDSK không được phân bổ nguồn kinh phí riêng cho hoạt động này nên rất khó khăn khi triển khai thực hiện hoạt động”

(PVS trưởng phòng TT-GDSK).

Công tác quản lý như lập kế hoạch, theo dõi, giám sát, đánh giá, thống kê báo cáo và chỉ đạo của tuyến trên đối với phòng TT-GDSK huyện chưa hiệu quả. Quản lý và đào tạo nhân lực tham gia hoạt động TT-GDSK chưa đảm bảo.

Hộp 5 – Thực trạng công tác quản lý hoạt động TT-GDSK

“Trung tâm TT-GDSK tuyến tỉnh chưa chỉ đạo thường xuyên và thành quy chế, quy định đối với tuyến huyện” (PVS trưởng phòng TT-GDSK).

“Tổ chức tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm công tác TT-GDSK gặp khó khăn do thiếu kinh phí” (PVS lãnh đạo trung tâm TT-GDSK tỉnh).

“Hệ thống thống kê báo cáo hoạt động TT-GDSK chưa được xây dựng đầy đủ” (PVS trưởng phòng TT-GDSK).

“Cán bộ làm công tác TT-GDSK không ổn định, thay đổi thường xuyên, chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm” (TLN cán bộ phòng TT-GDSK).

“Cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc nên chưa đầu tư nhiều cho hoạt động TT-GDSK” (PVS trưởng phòng TT-GDSK).

3.2. Đánh giá hiệu quả mô hình thí điểm Phòng TT-GDSK tại huyện