• Không có kết quả nào được tìm thấy

Các nghiên cứu về Bảo hiểm y tế trên thế giới

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.6. Các nghiên cứu về Bảo hiểm y tế trên thế giới

Nghiên cứu 1: Trong nghiên cứu của nhóm tác giả Makadon, Harvey J.; Seage, George R. III; Thorpe, Kenneth E.; Fineberg, Harvey V. về thanh toán chi phí y tế cho bệnh nhân HIV, nhóm tác giả đã đưa ra một số nhận

định: Việc chăm sóc sức khỏe của những người bị nhiễm HIV có nhiều bất cập và nổi bật trong hệ thống chăm sóc sức khỏe tài chính, nhóm nghiên cứu đã đặt ra câu hỏi làm thế nào tốt nhất để trả tiền cho việc chăm sóc. Bệnh nhân AIDS đòi hỏi một sự chăm sóc liên tục mở rộng để duy trì chất lượng cao và chi phí hợp lý. Nghiên cứu cũng chỉ ra nhu cầu được tiếp cận chăm sóc của người nhiễm HIV nói chung và những người không có bảo hiểm. Trong nghiên cứu, nhóm tác giả đề nghị các cơ chế thanh toán mới và thực tế để có thể khuyến khích sự sẵn có của chăm sóc toàn diện cho những người bị nhiễm HIV. Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra lời khuyên cho người nhiễm HIV/AIDS nên tham gia bảo hiểm y tế, khuyến khích mở rộng các điều kiện để tất cả những người có thu nhập dưới mức nghèo liên bang, một cơ hội cho các cá nhân có thu nhập đến 200% của mức nghèo có thể mua bảo hiểm Medicaid, các cơ chế để khuyến khích các cơ quan nhà nước và tư nhân để trả tiền tiếp tục bảo hiểm sau khi mất việc làm, và một thời gian chờ đợi ngắn hơn cho Medicare khuyết tật [84].

Nghiên cứu 2: Trong nghiên cứu của nhóm tác giả Pence, Brian Wells PhD, MPH; Reif, Susan PhD; Whetten, Kathryn PhD, MPH; Leserman, Jane PhD; Stangl, Dalene PhD; Swartz, Marvin MD; Thielman, Nathan MD, MPH; Mugavero, Michael J. MD, MHSc về nhóm dân tộc thiểu số, người nghèo, người bị lạm dụng và bệnh nhân AIDS ở miền Nam nước Mỹ, cho thấy: Đại dịch HIV/AIDS ở miền Nam Hoa Kỳ đang trải qua một sự thay đổi đáng kể đối với một tỷ lệ lớn các trường hợp mới nhiễm HIV / AIDS ở phụ nữ, người Mỹ gốc Phi, và thông qua truyền tình dục khác giới.

Phương pháp của nghiên cứu: Sử dụng lấy mẫu liên tiếp, 611 người tham gia đã được phỏng vấn từ tám Bệnh viện có khoa truyền nhiễm bệnh tại 5 tiểu bang Đông Nam năm 2001- 2002.

Kết quả:

- 64% người tham gia là người Mỹ gốc Phi, 31% là nữ, và 43% bị nhiễm HIV thông qua quan hệ tình dục quan hệ tình dục khác giới

- 25% có bảo hiểm y tế tư nhân.

- 80% là điều trị kháng virus, và 46% có HIV RNA tải virus (VL)<400.

Kết luận của nghiên cứu: hệ thống phòng chống và chăm sóc cần phải giải quyết sự thay đổi của dịch HIVvào người nghèo, dân tộc thiểu số và các quần thể phụ nữ [85].

Nghiên cứu 3: Nghiên cứu của nhóm tác giả tại văn phòng Sở Y tế của thành phố San Francisco (SFCCC), cho kết quả: Trong số 178 người đàn ông nhiễm HIV từ Cohort Clinic thành phố San Francisco (SFCCC), nhóm nghiên cứu đã kiểm tra sự liên kết giữa bảo hiểm y tế và sử dụng các dịch vụ ngoại trú và điều trị. Nhóm nam giới không có bảo hiểm tư nhân thì tần suất khám bệnh ngoại trú ít hơn nam giới với lệ phí dịch vụ hoặc kế hoạch quản lý chăm sóc.

Sử dụng zidovudine cho nam giới đủ điều kiện tương tự cho những người có lệ phí cho dịch vụ kế hoạch (74%), kế hoạch quản lý chăm sóc (77%), hoặc không có bảo hiểm (61%). Trong số 149 nam giới có bảo hiểm tư nhân, 31 (21%) báo cáo rằng họ đã tránh được bằng cách sử dụng bảo hiểm y tế chi phí y tế trong các năm trước. Những người có bảo hiểm tư nhân thì sử dụng các dịch vụ ngoại trú cao hơn. Những lo ngại về mất bảo hiểm và bảo mật có thể phủ nhận một số lợi ích của bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV [86].

Nghiên cứu 4: Theo nghiên cứu “Chi phí cho việc Chăm sóc bệnh nhân nhiễm HIV trong kỷ nguyên của điều trị kháng retrovirus rất chủ động”

do Hiệp hội nghiên cứu Chi phí HIV và Sử dụng nguồn Dịch vụ, Y tế xã hội Massachusetts [89] cho kết quả sau:

Biểu đồ trên cho thấy điều chỉnh chi tiêu hàng tháng cho các phân nhóm bệnh nhân vào năm 1998:

- Tổng chi phí thấp hơn trong năm 1998 so với năm 1996 cho tất cả các phân nhóm, nhưng chúng khác nhau rất nhiều trong số các phân nhóm trong cả hai năm. Cuối năm 1998, chi phí cao hơn khoảng ba lần cho bệnh nhân có CD4 < 500 mm3 so với bệnh nhân có CD4 > 500 mm3 (P <0.001).

- Chi phí cho các bệnh nhân có bảo hiểm bất kỳ cũng cao hơn so với bệnh nhân không có bảo hiểm (P <0,001), cho bệnh nhân có bảo hiểm công cộng cao hơn so với bệnh nhân có bảo hiểm tư nhân (P = 0,004).

Từ Biểu đồ trên, nhóm nghiên cứu nhận định:

- Tỷ lệ chi phí về thuốc ở nam giới cao hơn rõ rệt so với phụ nữ (P <0.001), ở nhóm nam giới có quan hệ tình dục với nam giới cao hơn so với nhóm nguy cơ khác (P = 0,003), nhóm người da trắng cao hơn cho người da

đen (P <0,001) hoặc gốc Tây Ban Nha (P = 0,004)

- Chi phí cho thuốc cũng cao hơn ở nhóm bệnh nhân có bảo hiểm tư nhân hoặc bảo hiểm của Medicare so với những người có Medicaid hay chi trả không có bảo hiểm (P <0,001 cho tất cả các so sánh), cho bệnh nhân cho sống ở phương Tây cao hơn so với những người sống ở miền Nam (P =0,05) hoặc bệnh nhân Đông Bắc (P = 0,003), và cao hơn cho những người có trình độ học vấn cao so với những người có trình độ học vấn thấp hơn (P <0,001) cho sinh viên tốt nghiệp so với không tốt nghiệp, và (P =0,004) cho bệnh nhân có một số giáo dục đại học so với bệnh nhân không có.

Theo một kết quả nghiên cứu của Dự án Giám sát y tế (MMP) của Mỹ năm 2009, nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu trong tháng 6 năm 2007 - tháng 9 năm 2008 trên những bệnh nhân được chăm sóc y tế trong năm 2007. Tổng cộng có 26 khu vực dự án tại 19 tiểu bang và Puerto Rico đã được tài trợ để thu thập dữ liệu trong quá trình MMP chu kỳ thu thập dữ liệu năm 2007. Kết quả từ chu kỳ MMP năm 2007 chỉ ra rằng trong số 3.643 người tham gia, tổng cộng 3.040 (84%) đã có một số hình thức bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm trong vòng 12 tháng trước khi phỏng vấn, trong số này, 45% báo cáo có Medicaid, 37% báo cáo có bảo hiểm hoặc bảo hiểm y tế tư nhân thông qua một tổ chức bảo trì sức khỏe, và 30% báo cáo có Medicare. Tổng cộng có 3.091 (85%) của những người tham gia hiện đang dùng thuốc kháng virus [89].