• Không có kết quả nào được tìm thấy

KTMT được chia thành hai bộ phận là kế toán tài chính môi trường (KTTCMT) và kế toán quản trị môi trường (KTQTMT)

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "KTMT được chia thành hai bộ phận là kế toán tài chính môi trường (KTTCMT) và kế toán quản trị môi trường (KTQTMT)"

Copied!
27
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

–—–—–—

NGUYỄN THỊ KIM TUYẾN

KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 9.34.03.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2020

(2)

Công trình được hoàn thành tại: Học viện Tài chính Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Phú Giang

2. TS. Lê Thị Diệu Linh Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại………

Vào hồi giờ ngày tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:

……….

(3)

MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài

Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu đối với doanh nghiệp (DN) toàn cầu. Kế toán môi trường (KTMT) đã chứng tỏ là công cụ kế toán phù hợp với xu hướng phát triển bền vững vì nó giúp DN đạt được đồng thời hiệu quả môi trường và hiệu quả kinh tế.

Theo Schaltegger và Burritt (2017), KTMT ra đời từ áp lực của các bên liên quan và thay đổi quan hệ chi phí. Xét ở cấp độ DN, KTMT là một bộ phận trong hệ thống kế toán, sử dụng khuôn khổ lý thuyết và phương pháp kế toán mới để ghi nhận, đo lường và công bố thông tin môi trường hỗ trợ cho việc ra quyết định của các bên liên quan bên trong và bên ngoài DN. KTMT được chia thành hai bộ phận là kế toán tài chính môi trường (KTTCMT) và kế toán quản trị môi trường (KTQTMT).

Ngành khai khoáng có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Định nói riêng. Ngành khai khoáng tỉnh Bình Định được chia thành năm lĩnh vực kinh doanh, bao gồm:

khai thác đá, khai thác cát, khai thác đất san lấp, khai thác titan và khai thác nước nóng thiên nhiên. Đặc điểm hoạt động của năm lĩnh vực kinh doanh này có tác động tiêu cực đến môi trường như: ô nhiễm bụi, tiếng ồn, ô nhiễm nước ngầm, nước mặt, … Do đó, mặc dù phần lớn là DN quy mô nhỏ và vừa, chưa niêm yết nhưng nhu cầu thông tin môi trường của các bên liên quan đối với ngành khai khoáng tỉnh Bình Định ngày càng gia tăng. Ngành công nghiệp này chịu tác động không nhỏ từ các văn bản pháp lý về môi trường của Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương, …Vì vậy, thực hiện KTMT trong ngành khai khoáng tỉnh Bình Định là tất yếu khách quan. Tại Việt Nam, KTMT là lĩnh vực nghiên cứu khá mới trong cả học thuật và thực hành nên số lượng công trình nghiên cứu KTMT còn khá khiêm tốn. Điều này làm cho việc thực hiện KTMT tại các DN ở Việt Nam còn gặp

(4)

nhiều khó khăn và DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định cũng không phải là ngoại lệ.

Với những phân tích trên, tác giả thực hiện luận án với đề tài “Kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định”.

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1 Tổng quan nghiên cứu về kế toán môi trường 2.1.1 Các nghiên cứu về kế toán môi trường trên thế giới

2.1.1.1 Các nghiên cứu về ghi nhận thông tin KTMT trên thế giới Về ghi nhận thông tin KTTCMT, Hội nghị của Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển - UNCTAD (2002), Bộ Môi trường Nhật Bản - JMOE (2005), Liên đoàn kế toán quốc tế - IFAC (2005) đã lần lượt đưa ra các định nghĩa, phân loại chi phí môi trường (CPMT), thu nhập môi trường (TNMT), tài sản môi trường (TSMT) và nợ phải trả môi trường (NPTMT).

Về ghi nhận thông tin KTQTMT, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ - USEPA (1995), Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Phát triển bền vững - UNDSD (2001), JMOE (2005) và IFAC (2005) đã trình bày định nghĩa CPMT, TNMT, tiết kiệm môi trường và phân loại CPMT. Tuy nhiên, phân loại CPMT chưa có sự thống nhất giữa các tổ chức khác nhau. Theo Schaltegger và Buritt (2000), Burritt và cộng sự (2002) thì thông tin KTQTMT bao gồm thông tin vật lý môi trường, thông tin tiền tệ môi trường giúp DN đánh giá toàn diện về quy mô và mức độ tác động môi trường. Qian và Burritt (2011) chứng minh thông tin vật lý và thông tin tiền tệ môi trường cho các hoạt động trực tiếp quản lý chất thải và tái chế cao hơn so với các hoạt động gián tiếp tại 12 chính quyền địa phương nằm ở bang New South Wales ở Úc. Ngoài ra, Jamil và cộng sự (2015) đã cho thấy thực hành KTQTMT trong các DN Malaysia thiên về KTQTMT vật lý hơn là KTQTMT tiền tệ.

(5)

2.1.1.2 Các nghiên cứu về xử lý, phân tích thông tin KTMT trên thế giới

Về xử lý, phân tích thông tin KTTCMT, các chuẩn mực kế toán có ảnh hưởng rất lớn đến xử lý thông tin KTTCMT nhằm đảm bảo thông tin có chất lượng, hỗ trợ các bên liên quan ra quyết định. Tuy nhiên, chưa có chuẩn mực kế toán quốc tế đề cập riêng thông tin môi trường.

Firoz và Ansari (2010), Goyal (2013), Barbu và cộng sự (2014) đã lần lượt cho thấy số lượng các chuẩn mực kế toán quốc tế có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến thông tin môi trường.

Về xử lý, phân tích thông tin KTQTMT, nhiều học giả trên thế giới đã cung cấp một loạt các công cụ kỹ thuật khác nhau được phân thành ba nhóm chính: phân tích chi phí (chi phí chu kỳ sống -LCC, chi phí dựa trên hoạt động -ABC và kế toán chi phí dòng vật liệu- MFCA), thẩm định đầu tư (đánh giá tổng chi phí -TCA) và quản lý hiệu quả (phân tích hiệu quả môi trường, thẻ điểm cân bằng điểm bền vững – SBSC) (USEPA, 1995; Schaltegger và Müller, 1997; Bartolomeo và cộng sự, 2000; UNDSD, 2001; Burritt và cộng sự, 2002; Figge và cộng sự, 2002; Burritt, 2004; IFAC, 2005; Schaltegger và Wagner, 2006;

Onishi và cộng sự, 2008; Jasch, 2008; Wahyuni, 2009;

Vinayagamoorthi và cộng sự, 2012). Trọng tâm chính của KTQTMT là xác định, phân bổ CPMT và phát triển các chỉ số hiệu quả môi trường (Frost và Wilmshurst, 2000).

2.1.1.3 Các nghiên cứu về cung cấp thông tin KTMT trên thế giới Về cung cấp thông tin KTTCMT, các DN trên thế giới đã sử dụng hình thức bắt buộc hoặc tự nguyện để truyền tải thông tin môi trường đến các bên liên quan. Một số khuôn khổ báo cáo môi trường đã ra đời nhằm khuyến khích DN gia tăng công bố thông tin môi trường như:

Khuôn khổ Báo cáo Phát triển bền vững của Tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI), Khuôn khổ Phát triển bền vững của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), …Các nghiên cứu thực nghiệm về công bố thông tin môi trường hầu hết tập trung vào các nước phát triển, một số ít các nước công nghiệp mới nổi, đang phát triển. Một số nghiên cứu của

(6)

Kreuze và cộng sự (1996), Salomone và Galluccio (2001), Sumiani và cộng sự (2007), Zhang và cộng sự (2008), … đã cho thấy công bố thông tin môi trường có xu hướng tăng, các loại thông tin môi trường được công bố đa dạng, thông tin môi trường là không thể so sánh, không đáng tin cậy vì chưa được quy chuẩn.

Về cung cấp thông tin KTQTMT, JMOE (2005) đã ban hành hướng dẫn các báo cáo môi trường nội bộ dùng để phân tích, đánh giá dữ liệu môi trường, phục vụ quản lý môi trường tốt hơn như: báo cáo chi phí bảo tồn môi trường, báo cáo hoạt động bảo tồn môi trường, báo cáo thu nhập bảo tồn môi trường, báo cáo tiết kiệm môi trường.

2.1.2 Các nghiên cứu về kế toán môi trường tại Việt Nam

2.1.2.1 Các nghiên cứu về ghi nhận thông tin KTMT tại Việt Nam Về ghi nhận thông tin KTTCMT, nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam như: Phạm Đức Hiếu và Trần Thị Hồng Mai (2012), Lê Kim Ngọc (2013), Phạm Hoài Nam (2016), Hoàng Thị Bích Ngọc (2017), Lê Thị Tâm (2017), Nguyễn Thị Hằng Nga (2017), Lâm Thị Trúc Linh (2019) đã đưa ra định nghĩa TSMT, CPMT, NPTMT, TNMT, phân loại TSMT, NPTMT, CPMT dựa trên các tài liệu được ban hành bởi EPA (1995), UNDSD (2001), UNCTAD (2002), JMOE (2005).

Về ghi nhận thông tin KTQTMT, dựa vào các hướng dẫn của USEPA (1995), UNDSD (2001), IFAC (2005), JMOE (2005), các nghiên cứu về KTQTMT ở Việt Nam đã đưa ra định nghĩa CPMT, TNMT, phân loại CPMT, ghi nhận thông tin tiền tệ môi trường và thông tin phi tiền tệ môi trường (Lê Kim Ngọc, 2013; Hà Xuân Thạch, 2014; Phạm Quang Huy, 2016; Phạm Hoài Nam, 2016; Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017; Lê Thị Tâm, 2017; Nguyễn Thị Hằng Nga, 2017).

CPMT trong các DN Việt Nam được nhận diện chủ yếu là CPMT cuối đường ống (Lê Thị Tâm, 2017; Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017; Nguyễn Thị Nga, 2017; Ngô Thị Hoài Nam, 2017).

(7)

2.1.2.2 Các nghiên cứu về xử lý, phân tích thông tin KTMT tại Việt Nam

Về xử lý, phân tích thông tin KTTCMT, một số bài báo và luận án tiến sĩ trong nước đã đề cập đến các chuẩn mực kế toán quốc tế về môi trường, đề xuất một số tài khoản kế toán chi tiết để đo lường chuẩn xác, tách biệt các thông tin môi trường với các thông tin kế toán truyền thống (Nguyễn Thị Kim Tuyến, 2016; Phạm Hoài Nam, 2016; Lâm Thị Trúc Linh, 2019).

Ngoài ra, một số học giả trong nước đã tập trung vào xử lý thông tin KTQTMT thông qua các phương pháp phân bổ CPMT tiên tiến (ABC, MFCA, LCC, …) hoặc phân tích hiệu quả môi trường (Phạm Hoài Nam, 2016; Hoàng Thị Bích Ngọc, 2014; Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017; Lê Thị Tâm, 2016; Lê Thị Tâm, 2017; Nguyễn Thị Hằng Nga, 2017). Các DN sản xuất ở Việt Nam phản ánh CPMT vào tài khoản chung và phân bổ CPMT theo phương pháp truyền thống, hạn chế theo dõi CPMT trên sổ chi tiết cũng như đánh giá hiệu quả môi trường (Phạm Hoài Nam, 2016; Lê Thị Tâm, 2017; Nguyễn Thị Nga, 2017;

Hoàng Thị Bích Ngọc, 2017; Ngô Thị Hoài Nam, 2017).

2.1.2.3 Các nghiên cứu về cung cấp thông tin kế toán môi trường tại Việt Nam

Về cung cấp thông tin KTTCMT, các nghiên cứu tại Việt Nam cho thấy mức độ công bố thông tin môi trường còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của các bên liên quan (Phạm Hoài Nam, 2016; Nguyễn Thị Kim Tuyến và cộng sự, 2018; Lâm Thị Trúc Linh, 2019).

Về cung cấp thông tin KTQTMT, các nghiên cứu của Phạm Hoài Nam (2016), Lê Thị Tâm (2017), Hoàng Thị Bích Ngọc (2017), Nguyễn Thị Nga (2017) và Ngô Thị Hoài Nam (2017) cho thấy báo cáo KTQTMT được lập hạn chế tại các DN Việt Nam.

(8)

2.2 Tổng quan nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán môi trường

2.2.1 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán môi trường trên thế giới

2.2.1.1 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTTCMT Trong các nghiên cứu trước, các nhân tố ảnh hưởng đến KTTCMT hay công bố thông tin môi trường đã được xác định, bao gồm: đặc điểm doanh nghiệp (quy mô, ngành công nghiệp, khả năng sinh lợi…) (xem Deegan và Gordon, 1996; Zhang và cộng sự, 2008; Malarvizhi và Matta, 2016), áp lực các bên liên quan (chính phủ, cộng đồng, khách hàng, cổ đông, …) (xem Hoffman, 2001; Liu và Anbumozhi, 2009).

Các nhân tố này được nghiên cứu từ góc độ lý thuyết nền kết hợp với nghiên cứu thực hành.

2.2.1.2 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTMT Tương tự KTTCMT, tổng quan nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTMT trên thế giới được nghiên cứu dưới hai góc độ: lý thuyết nền và nghiên cứu thực hành. KTQTMT chịu ảnh hưởng của bối cảnh thể chế và xã hội liên quan đến sự gia tăng các quy định môi trường, nhận thức môi trường ảnh hưởng đến nhận thức nhà quản trị (xem Bouma và Van der Veen, 2002; Qian và Burritt, 2008; Jalaludin và cộng sự, 2011; Jamil và cộng sự, 2015) và một số yếu tố ngữ cảnh trong lý thuyết bất định như: chiến lược môi trường, tính không chắc chắn môi trường, quy mô DN, ngành công nghiệp, … (Parker, 1997;

Lewis và Harvey, 2001; Qian và Burritt, 2009; Ferreira và cộng sự, 2010, Qian và cộng sự, 2011; Christ và Burritt, 2013; Setthasakko, 2015).

2.2.2 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện kế toán môi trường tại Việt Nam

2.2.2.1 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTTCMT Các công trình nghiên cứu tại Việt Nam về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTTCMT đều hướng đến nhận diện, đo lường các nhân tố như: quy mô, lợi nhuận, đòn bẩy tài chính, số năm hoạt động, kiểm

(9)

toán độc lập, áp lực cưỡng chế của Chính phủ, nhận thức nhà quản trị cấp cao, ngành công nghiệp, áp lực cộng đồng, … (xem La Soa Nguyen và các cộng sự, 2017; Nguyễn Thị Kim Tuyến và cộng sự, 2018; Lâm Thị Trúc Linh, 2019).

2.2.2.2 Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTMT Tại Việt Nam, công trình nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTMT còn hạn chế. Một số nghiên cứu liên quan chẳng hạn nghiên cứu của Nguyễn Thị Hằng Nga (2017), Lê Thị Tâm (2017), Nguyễn Thị Nga (2017), Hoàng Thị Bích Ngọc (2017). Các nghiên cứu này đã nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTQTMT là: chiến lược môi trường, sự biến động của môi trường kinh doanh, áp lực quy chuẩn, sự phức tạp của nhiệm vụ, áp lực mô phỏng, áp lực cưỡng ép, áp lực cộng đồng, nhận thức nhà quản lý về kế toán quản trị CPMT, …

2.3 Khoảng trống nghiên cứu

Các tổ chức và chuyên gia trên thế giới đã trình bày nhiều khía cạnh khác nhau trong quy trình xử lý thông tin KTMT nói chung và KTTCMT, KTQTMT nói riêng. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào thể hiện một khuôn khổ KTMT toàn diện và tập trung.

Ở Việt Nam, nhiều luận án, bài báo khoa học và công trình nghiên cứu cơ sở đề cập đến ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin KTMT.

Tuy nhiên, các nghiên cứu trước về KTMT tại Việt Nam chưa bao quát hết các khía cạnh trong quy trình xử lý thông tin môi trường, đề cập tản mạn về KTTCMT, KTQTMT chủ yếu là góc độ quản trị CPMT nhưng thiếu vắng các khuôn khổ báo cáo môi trường, các phương tiện báo cáo thông tin môi trường ra bên ngoài DN. Ngoại trừ nghiên cứu của Phạm Hoài Nam (2016), các nghiên cứu KTMT còn lại đều thực hiện theo một trong hai dòng nghiên cứu, đó là: KTTCMT hoặc KTQTMT. Tuy nhiên, Phạm Hoài Nam (2016) chỉ thể hiện thực hiện KTMT chứ chưa đề cập đến nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT.

Về các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT nói chung hay KTTCMT, KTQTMT nói riêng đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu trên

(10)

thế giới và Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả các nghiên cứu trước lại chưa thống nhất còn nhiều điểm khác biệt.

2.4 Định hướng nghiên cứu

Theo Herzig và cộng sự (2012), nghiên cứu KTMT tại các nước đang phát triển còn hạn chế. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung thêm nghiên cứu về KTMT tại nước đang phát triển như Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ bổ sung vào số ít nghiên cứu KTMT tại Việt Nam khi nghiên cứu cả KTTCMT và KTQTMT. Luận án sẽ tổng hợp, hệ thống hoá một cách đầy đủ các khía cạnh trong quy trình xử lý thông tin KTTCMT, KTQTMT nhằm cung cấp một bức tranh toàn diện, tập trung về KTMT.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu trước về nhân tố ảnh hưởng đến KTMT chưa thống nhất nên cần có thêm nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT trong các DN sản xuất nói chung và các DN khai khoáng nói riêng. So với các nghiên cứu trước, nghiên cứu này sẽ mở rộng lý thuyết nền, xác định và đo lường các nhân tố có liên quan đến KTMT bằng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp.

3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát là nghiên cứu KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Từ mục tiêu tổng quát, luận án có các mục tiêu cụ thể như sau:

- Hệ thống hoá lý luận về KTMT trong DN.

- Đánh giá tình hình thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

- Đo lường tác động của các nhân tố đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản tỉnh Bình Định.

(11)

3.2 Câu hỏi nghiên cứu

Luận án có câu hỏi nghiên cứu như sau:

- KTMT trong DN bao gồm những nội dung gì?

- KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay như thế nào?

- Các nhân tố nào ảnh hưởng đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định?

- Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định?

- Các giải pháp nào phù hợp để hoàn thiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định?

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là KTMT và các nhân tố ảnh hưởng đến KTMT trong DN.

- Phạm vi nghiên cứu là các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định. KTMT có nhiều công cụ kỹ thuật khác nhau và luận án tập trung nghiên cứu các công cụ trọng yếu liên quan đến sản phẩm, quá trình sản xuất với chi phí môi trường nội bộ, bao gồm: kế toán chi phí dòng vật liệu, chi phí dựa trên hoạt động, chi phí vòng đời sản phẩm, chỉ số hiệu quả môi trường.

5. Phương pháp nghiên cứu và quy trình nghiên cứu 5.1 Phương pháp nghên cứu

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, cụ thể:

- Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng để xác định cơ sở lý luận, lý thuyết nền về KTMT, xác định giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu dự kiến.

- Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để kiểm định mô hình nghiên cứu, đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến thực hiện KTMT thông qua phần mềm SPSS.

5.2 Quy trình nghiên cứu

Quy trình nghiên cứu trong luận án được thực hiện qua các bước:

Bước 1: Tổng quan nghiên cứu

(12)

Bước 2: Phương pháp nghiên cứu định tính

Bước 3: Phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng

Bước 4: Các giải pháp và kiến nghị 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 6.1 Ý nghĩa khoa học

Các nghiên cứu học thuật trên thế giới về KTMT đã tương đối đầy đủ nhưng còn tản mạn nên nghiên cứu này sẽ cung cấp cơ sở lý luận về KTMT thống nhất, tập trung, rõ ràng hơn. Đồng thời, nghiên cứu này bổ sung thêm vào dòng nghiên cứu thực hiện KTMT và nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT tại Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung khi kết quả các nghiên cứu trước còn chưa thống nhất.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

KTMT tại Việt Nam còn là lĩnh vực khá mới nên số lượng nghiên cứu chưa nhiều. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ làm sáng tỏ tình hình thực hiện KTMT trong ngành khai khoáng tỉnh Bình Định - một trong những ngành nhạy cảm môi trường theo thông tư 04/2012/TT- BTNMT. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT sẽ cung cấp hàm ý đến các bên liên quan cũng như các DN khai khoáng tỉnh Bình Định để họ nỗ lực thúc đẩy thực hiện KTMT hướng tới phát triển bền vững.

7. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án có 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về KTMT trong DN.

Chương 2: Thực trạng KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

(13)

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG TRONG DOANH NGHIỆP

1.1 Tổng quan về kế toán môi trường

1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển kế toán môi trường 1.1.2 Bản chất kế toán môi trường

KTMT là một bộ phận trong hệ thống kế toán, sử dụng khuôn khổ lý thuyết và phương pháp kế toán mới để ghi nhận, đo lường và công bố thông tin tài chính môi trường và thông tin phi tài chính môi trường nhằm hỗ trợ hữu ích cho việc ra quyết định của các bên liên quan bên trong và bên ngoài DN. KTMT là phương tiện để đo lường những tương tác giữa môi trường và hoạt động kinh doanh của DN, nhấn mạnh liên kết giữa hiệu quả môi trường với hiệu quả kinh tế hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

KTTCMT là một bộ phận của kế toán tài chính liên quan đến ghi nhận, đo lường và công bố các thông tin môi trường hữu ích thông qua báo cáo môi trường chủ yếu đến các bên liên quan bên ngoài như:

chính phủ, các tổ chức môi trường, nhà đầu tư, các tổ chức tài chính….

KTQTMT là quá trình ghi nhận, xử lý và phân tích thông tin tài chính môi trường (thông tin tiền tệ môi trường) và thông tin phi tài chính môi trường (thông tin vật lý môi trường) hỗ trợ cho việc ra quyết định nội bộ nhằm cải thiện hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của DN.

1.1.3 Chức năng kế toán môi trường

KTMT có chức năng thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin môi trường cho các đối tượng sử dụng bên trong và bên ngoài DN. Chức năng KTMT được chia thành hai loại, đó là chức năng bên trong của KTQTMT và chức năng bên ngoài của KTTCMT.

1.1.4 Vai trò kế toán môi trường 1.1.5 Nội dung kế toán môi trường

Dựa vào quy trình kế toán, nội dung KTMT bao gồm các công việc từ ghi nhận, xử lý, phân tích đến cung cấp thông tin môi trường.

(14)

Dựa vào đối tượng sử dụng thông tin và phạm vi cung cấp thông tin, KTMT được chia thành 2 nội dung, đó là: KTTCMT và KTQTMT.

Trong luận án này, nội dung KTMT được nghiên cứu theo hướng kết hợp giữa quy trình kế toán xử lý thông tin môi trường và đối tượng sử dụng thông tin môi trường.

1.2 Ghi nhận thông tin kế toán môi trường

1.2.1 Ghi nhận thông tin kế toán tài chính môi trường

Thông tin phi tài chính môi trường là thông tin định tính môi trường, mang tính chất mô tả nhằm thông báo cho các bên liên quan bên ngoài về chính sách môi trường, mục tiêu môi trường, hệ thống quản lý môi trường, tuân thủ các quy định môi trường, …

Thông tin tài chính môi trường là thông tin định lượng môi trường thể hiện dưới dạng các con số, bao gồm TSMT, NPTMT, CPMT, TNMT. TSMT là tài sản thuộc quyền kiểm soát của DN, được sử dụng cho mục đích bảo vệ môi trường, giá trị được xác định một cách đáng tin cậy và có thể mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai. NPTMT là nghĩa vụ liên quan đến CPMT phát sinh đáp ứng tiêu chuẩn ghi nhận nợ phải trả. CPMT bao gồm các chi phí tự nguyện hoặc bắt buộc chi ra để quản lý tác động môi trường từ hoạt động sản xuất của DN do ý thức trách nhiệm với môi trường, cũng như các chi phí khác phát sinh để thực hiện mục tiêu và yêu cầu bảo vệ môi trường của DN. TNMT là thu nhập liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường phát sinh từ hoạt động bán phế liệu, chất thải, chứng chỉ giảm phát thải, trợ cấp chính phủ về bảo vệ môi trường…. dẫn đến gia tăng lợi ích kinh tế trong kỳ kế toán dưới hình thức tăng tài sản hoặc giảm đi nợ phải trả, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.

1.2.2 Ghi nhận thông tin kế toán quản trị môi trường

Thông tin vật lý môi trường về dòng luân chuyển năng lượng, nước, vật liệu trong quá khứ, hiện tại và tương lai có ảnh hưởng đến hệ sinh thái dưới dạng các đơn vị vật lý như kilôgam, mét khối, tấn…

(15)

Thông tin tiền tệ môi trường thể hiện các tác động môi trường liên quan đến DN trong quá khứ, hiện tại và tương lai bằng các đơn vị tiền tệ tập trung vào các khía cạnh như: CPMT, TNMT, …

1.3 Xử lý, phân tích thông tin kế toán môi trường

1.3.1 Xử lý, phân tích thông tin kế toán tài chính môi trường

TSMT được đo lường theo các quy định liên quan trong chuẩn mực kế toán ở mỗi quốc gia hoặc chuẩn mực kế toán quốc tế, gồm 2 nội dung: xác định giá trị ban đầu và xác định giá trị sau ghi nhận ban đầu.

Đo lường TSMT trong chuẩn mực kế toán quốc tế được thể hiện lần lượt qua IAS 16 cho TSCĐ hữu hình và IAS 38 cho TSCĐ vô hình.

Ngoài ra, TSMT bị tổn thất cần xử lý theo IAS 36.

NPTMT được đo lường tập trung vào các khoản dự phòng nợ phải trả. Theo UNCTAD (2002) và IAS 37 có ba phương pháp để ước tính giá trị dự phòng NPTMT, đó là: phương pháp giá trị hiện tại, phương pháp chi phí hiện tại, phương pháp chi phí dự kiến trong suốt quá trình hoạt động.

CPMT được đo lường giống như chi phí sản xuất kinh doanh thông thường. TNTM được đo lường giống như thu nhập thông thường.

1.3.2 Xử lý, phân tích thông tin kế toán quản trị môi trường

KTQTMT sử dụng các công cụ như chi phí dựa trên hoạt động (ABC), chi phí theo dòng luân chuyển vật liệu (MFCA), phân tích hiệu quả môi trường, .... để xử lý, phân tích thông tin KTQTMT.

1.4 Cung cấp thông tin kế toán môi trường

1.4.1 Cung cấp thông tin kế toán tài chính môi trường

Các DN lập báo cáo môi trường bên ngoài dựa trên các khuôn khổ báo cáo như: Khuôn khổ Báo cáo Phát triển bền vững của Tổ chức Sáng kiến Báo cáo Toàn cầu (GRI), Hiệp ước Toàn cầu của Liên hợp quốc, Khuôn khổ Phát triển bền vững của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), …Tuy nhiên, việc sử dụng khuôn khổ nào còn tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi DN.

Các thông tin tài chính và phi tài chính môi trường được cung cấp trong báo cáo tài chính hoặc được thể hiện trong một báo cáo riêng

(16)

biệt như báo cáo trách nhiệm xã hội - CSR, báo cáo tích hợp- IR, báo cáo phát triển bền vững.

1.4.2 Cung cấp thông tin kế toán quản trị môi trường

KTQTMT cung cấp báo cáo môi trường cho các nhà quản trị sử dụng nội bộ. Báo cáo môi trường nội bộ không bắt buộc tuân thủ theo các quy định pháp lý, chuẩn mực kế toán như báo cáo môi trường bên ngoài. Nói cách khác, tuỳ vào đặc điểm quản lý và yêu cầu của nhà quản trị để thiết lập nội dung, biểu mẫu báo cáo môi trường nội bộ.

1.5 Lý thuyết nền

Lý thuyết nền là nền tảng vô cùng quan trọng để lập luận và giải thích logic những nhân tố tác động đến thực hiện KTMT. Luận án sử dụng các lý thuyết nền như: lý thuyết các bên liên quan, lý thuyết hợp pháp, lý thuyết thể chế, lý thuyết bất định, lý thuyết tín hiệu, lý thuyết đại diện. Các lý thuyết này tổng hợp các khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội tương quan với nhau khi giải thích thực hiện KTMT. Sáu lý thuyết nền đã luận giải các nhân tố ảnh hưởng đến KTMT được phát hiện từ các nghiên cứu trước như: nhận thức nhà quản trị cấp cao, đặc điểm doanh nghiệp, áp lực các bên liên quan, áp lực cưỡng chế, áp lực quy phạm, …

1.6 Kinh nghiệm về kế toán môi trường của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ sự tương đồng về văn hoá Á Đông cũng như học hỏi trải nghiệm KTMT ở các nước tiên tiến cho ngành công nghiệp nhạy cảm với môi trường trong đó có ngành khai khoáng, tác giả đã nghiên cứu KTMT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Úc để đút rút kinh nghiệm cho Việt Nam.

Kết luận chương 1

(17)

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1 Tổng quan về ngành khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

2.2 Thực trạng kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

2.2.1 Mô tả mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu sử dụng trong đề tài này được chọn theo phương pháp chọn mẫu xác suất với kỹ thuật lấy mẫu phân tầng, thu thập mẫu bằng phương pháp khảo sát qua bảng hỏi, quy mô mẫu 149 quan sát.

2.2.2 Nghiên cứu định tính về thực hiện KTMT và các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

Về tình hình thực hiện KTMT tại các DN khai khoáng tỉnh Bình Định, tác giả xem xét trên cơ sở phân loại DN niêm yết và DN chưa niêm yết.

ü Đối với các DN chưa niêm yết

Về ghi nhận thông tin KTMT: các DN khai khoáng chưa niêm yết tỉnh Bình Định chủ yếu ghi nhận thông tin tài chính môi trường ở góc độ KTTCMT. Trong khi đó, ở góc độ KTQTMT thông tin môi trường được ghi nhận thiên về thông tin tiền tệ dễ nhận diện. Hầu hết các DN này đều chưa chú trọng đến thông tin vật lý môi trường, thông tin phi tài chính môi trường.

Về xử lý, phân tích thông tin KTMT: Ở góc độ KTTCMT, các thông tin môi trường được xử lý giống như thông tin kế toán tài chính truyền thống khi đo lường theo các chuẩn mực kế toán, quy định hiện hành, chưa tách biệt giá trị hoặc phản ánh vào tài khoản riêng. Ở góc độ KTQTMT, việc xử lý, phân tích thông tin môi trường thông qua các phương pháp phân bổ hiện đại, phân tích hiệu quả môi trường còn hạn chế.

(18)

Về cung cấp thông tin KTMT: Ở góc độ KTTCMT, các DN khai khoáng chưa niêm yết tỉnh Bình Định cung cấp thông tin môi trường bằng các báo cáo tài chính. Ở góc độ KTQTMT, việc lập báo cáo môi trường nội bộ tại các DN này còn hạn chế.

ü Đối với các DN niêm yết

Về ghi nhận thông tin KTMT: Ở góc độ KTTCMT, các DN khai khoáng niêm yết tỉnh Bình Định cũng chủ yếu ghi nhận thông tin tài chính môi trường về CPMT, NPTMT, TSMT. Ngoài ra, các DN này còn ghi nhận thêm các thông tin phi tài chính về khối lượng vật liệu, nước, năng lượng, tuân thủ quy định môi trường. Ở góc độ KTQTMT, các DN này tập trung vào thông tin tiền tệ môi trường chủ yếu là CPMT hơn là quan tâm đến thông tin vật lý môi trường.

Về xử lý, phân tích thông tin KTMT: thông tin KTTCMT tại các DN khai khoáng niêm yết tỉnh Bình Định được xử lý, đo lường cơ bản giống như DN chưa niêm yết. Ở góc độ KTQTMT, các DN này chưa sử dụng các chỉ số hiệu quả môi trường cho phân tích và ra quyết định kinh doanh và CPMT được phân bổ bằng các tiêu thức truyền thống.

Về cung cấp thông tin KTMT: Ở góc độ KTTCMT, báo cáo tài chính, báo cáo thường niên được các DN khai khoáng niêm yết tỉnh Bình Định sử dụng để công bố thông tin môi trường ra bên ngoài. Ở góc độ KTQTMT, chưa có DN nào quan tâm đến việc lập và sử dụng báo cáo môi trường nội bộ phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh.

Về các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT, tác giả nhận diện một số nhân tố thông qua phương pháp phỏng vấn sâu nhà quản trị, cụ thể: áp lực từ các cơ quan quản lý nhà nước, đặc điểm DN, nhận thức nhà quản trị cấp cao, nhận thức môi trường của khách hàng, cộng đồng dân cư, trình độ nhân viên kế toán.

(19)

2.2.3 Nghiên cứu định lượng về thực hiện KTMT và các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện KTMT tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

2.2.3.1 Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu được xây dựng dựa trên các lý thuyết nền, các nghiên cứu trước đã công bố kết hợp với ý kiến chuyên gia.

Giả thuyết 1 (H1) : Áp lực từ các bên liên quan có mối quan hệ thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Giả thuyết 2 (H2) : Nhận thức của nhà quản trị cấp cao có mối quan hệ thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Giả thuyết 3 (H3) : Trình độ nhân viên kế toán về thông tin môi trường có mối quan hệ thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

Giả thuyết 4 (H4) : Đặc điểm DN có mối quan hệ thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

2.2.3.2 Mô hình nghiên cứu

Mô hình nghiên cứu là mô hình hồi quy tuyến tính đa biến (Hình 2.1). Biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu là thực hiện KTMT với mã hoá THKTMT gồm 8 biến quan sát (Bảng 2.6). Các biến độc lập lần lượt là áp lực bên liên quan (mã hoá ALBLQ) gồm 9 biến quan sát, nhận thức nhà quản trị cấp cao (mã hoá NTNQT) gồm 3 biến quan sát, trình độ nhân viên kế toán (mã hoá NVKT) gồm 3 biến quan sát và đặc điểm DN (mã hoá DDDN) gồm 4 biến quan sát (Bảng 2.7).

Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến sử dụng trong nghiên cứu này là:

THKTMT = α1 ALBLQ + α2 NTNQT+ α3 NVKT + α4 DDDN + ε

(20)

2.2.3.3 Nghiên cứu định lượng về thực hiện KTMT tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

Thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định là rất thấp với giá trị trung bình là 2,147 < 3 (trung bình trên thang đo Likert 5 điểm) (Bảng 2.8).

2.2.3.4 Nghiên cứu định lượng về nhân tố ảnh hưởng đến KTMT tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

Phân tích thống kê mô tả

Kết quả phân tích thống kê mô tả cho thấy thang đo áp lực các bên liên quan có giá trị trung bình lớn hơn 3 trong khi ba thang đo còn lại về nhận thức nhà quản trị, trình độ nhân viên kế toán hay đặc điểm DN đều có giá trị trung bình dưới 3 (Bảng 2.9).

Kiểm định độ tin cậy thang đo

Kết quả kiểm định cho thấy các biến quan sát cho 5 thang đo về THKTMT, nhân tố ảnh hưởng đến THKTMT đều đạt yêu cầu về độ tin cậy ngoại trừ ALBLQ8 và DDDN3 bị loại vì hệ số tương quan biến tổng đều nhỏ hơn 0,3 (Bảng 2.10).

Phân tích nhân tố khám phá (EFA)

Phân tích EFA cho thang đo THKTMT cho kết quả: hệ số KMO = 0,855; giá trị Sig = 0,000; hệ số tải các biến đều lớn hơn 0,5; giá trị Eigenvalues = 5,583 với phương sai trích là 69,791% > 50% nên kết luận là đạt yêu cầu khi phân tích EFA.

Phân tích EFA cho bốn thang đo về nhân tố ảnh hưởng đến THKTMT cho thấy hệ số KMO = 0,701; giá trị Sig = 0,000; giá trị Eigenvalues = 1,652 với năm nhân tố được rút trích và phương sai trích là 72,296% > 50%; hệ số tải các biến đều lớn hơn 0,55. Như vậy, phân tích EFA này là phù hợp và kết quả EFA đã khám phá thêm một nhân tố mới ngoài 4 nhân tố ban đầu. Nhân tố mới này tác giả đặt tên là áp lực cưỡng chế từ cơ quan quản lý nhà nước gồm các biến quan sát ALBLQ1 (áp lực cưỡng chế từ quy định pháp luật của Chính phủ), ALBLQ2 (áp lực cưỡng chế từ văn bản pháp luật của các Bộ), ALBLQ3 (áp lực cưỡng chế từ văn bản pháp luật của Chính quyền

(21)

địa phương). Năm nhân tố giải thích được 72,296% sự biến thiến dữ liệu thông qua 17 biến quan sát.

Phân tích hồi quy tuyến tính đa biến

Từ kết quả phân tích EFA, giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu sử dụng trong phân tích hồi quy đa biến có sự thay đổi so với ban đầu, được thể hiện ở Bảng 2.12 và Hình 2.2. Phương trình hồi quy tuyến tính đa biến sử dụng chính thức trong nghiên cứu này là:

THKTMT = α1 ALCC + α2 ALBLQ + α3 NTNQT + α4 NVKT + α5 DDDN+ ε

Bảng 2.12: Các giả thuyết nghiên cứu chính thức

Các giả thuyết Nội dung giả thuyết Dấu kỳ vọng H1

Áp lực các bên liên quan có ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+

H2

Nhận thức nhà quản trị cấp cao về môi trường có ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+

H3

Trình độ nhân viên kế toán về thông tin môi trường có ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+

H4

Đặc điểm DN có ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+

H5

Áp lực cưỡng chế từ cơ quan quản lý nhà nước có ảnh hưởng thuận chiều đến thực hiện KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

+

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

(22)

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy phương trình hồi quy tuyến tính đa biến của nghiên cứu này là:

THKTMT = -3,479 + 0,592 ALCC+ 0,089 ALBLQ + 0,310 DDDN + 0,481 NTNQT + 0,266 NVKT

Phân tích sự khác biệt theo ngành nghề kinh doanh

Thực hiện KTMT có sự khác biệt giữa các ngành nghề kinh doanh trong các DN khai khoáng tỉnh Bình Định, nhiều nhất là các DN trong ngành khai thác đá (mean = 2,609), sau đó là các DN trong ngành khai thác titan (mean = 2,588) và thấp nhất là các DN trong ngành khai thác cát (mean = 1,822) (Bảng 2.18).

Phân tích sự khác biệt theo đối tượng khảo sát

Không có sự khác biệt về thực hiện KTMT giữa các đối tượng khảo sát trong các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định.

2.3 Đánh giá thực trạng về kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

2.3.1 Ưu điểm

Các DN khai khoáng tỉnh Bình Định đã ghi nhận các thông tin KTMT như là một bộ phận của thông tin kế toán truyền thống. Các thông tin định lượng môi trường được nhận diện tương đối đầy đủ, bao gồm: CPMT, TSMT, NPTMT. Các thông tin này được đo lường, phản ánh vào các tài khoản theo các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các thông tư, quyết định hiện hành. Bên cạnh đó, các DN này trình bày, cung cấp thông tin KTMT đến các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài trên cơ sở đảm bảo đúng các quy định trong thông tư 200/TT-BTC, thông tư 133/TT-BTC, thông tư 155/2015/TT-BTC.

2.3.2 Hạn chế

Thông tin KTMT chưa được ghi nhận đầy đủ khi hầu hết các DN khai khoáng trên địa bàn tỉnh Bình Định đều chưa quan tâm các thông tin phi tài chính môi trường, thông tin vật lý môi trường đặc biệt là chi phí chất thải. Bên cạnh đó, thông tin KTMT chưa được theo dõi, phản ánh riêng trên các tài khoản chi tiết, sổ chi tiết, phân bổ CPMT bằng

(23)

các tiêu thức truyền thống, chỉ số hiệu quả môi trường chưa được sử dụng vào việc phân tích trong hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, các DN chưa tích hợp các khía cạnh môi trường, xã hội, kinh tế với nhau thành một công cụ quản lý bền vững.

2.3.3 Nguyên nhân của hạn chế

Việt Nam chưa có hướng dẫn thực hiện KTMT, thiếu chuẩn mực kế toán về môi trường và các cơ quan quản lý nhà nước, các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức đào tạo chưa thúc đẩy, khuyến khích thực hiện KTMT. Bên cạnh đó, thiếu sự liên kết giữa bộ phận kế toán với bộ phận kỹ thuật, môi trường trong cơ cấu tổ chức của các DN khai khoáng tỉnh Bình Định cũng như nhận thức môi trường của nhà quản trị, trình độ nhân viên kế toán về môi trường tại các DN này còn thấp.

Kết luận chương 2

(24)

CHƯƠNG 3 : CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KHAI THÁC

KHOÁNG SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH 3.1 Định hướng bảo vệ môi trường và phát triển ngành khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

3.2 Quan điểm hoàn thiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

3.3 Các giải pháp hoàn thiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

3.3.1 Điều kiện thực hiện giải pháp

Để tạo lập nền tảng cho việc hoàn thiện KTMT, theo tác giả thì Bộ Tài chính cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các chuẩn mực kế toán có liên quan đến thực hiện KTMT như: sửa đổi VAS 03 theo IAS 16, ban hành chuẩn mực kế toán mới theo IAS 36, IAS 20, IFRS 6.

3.3.2 Hoàn thiện về ghi nhận thông tin kế toán môi trường

3.3.2.1 Hoàn thiện về ghi nhận thông tin kế toán tài chính môi trường Các DN khai khoáng tỉnh Bình Định cần nhận diện độc lập, thể hiện giá trị riêng biệt của TSMT, NPTMT, CPMT, TNMT và minh bạch hóa thông tin phi tài chính môi trường.

3.3.2.2 Hoàn thiện về ghi nhận thông tin kế toán quản trị môi trường Các DN khai khoáng tỉnh Bình Định đặc biệt DN trong lĩnh vực khai thác đá, khai thác titan cần theo dõi các thông tin vật lý môi trường quan trọng trong Bảng 3.1.

3.3.3 Hoàn thiện về xử lý, phân tích thông tin kế toán môi trường 3.3.3.1 Hoàn thiện về xử lý, phân tích thông tin KTTCMT

Các DN khai khoáng tỉnh Bình Định cần vốn hoá chi phí hoàn nguyên môi trường vào nguyên giá của TSMT theo như IAS 16. Tuỳ vào đặc điểm của mỗi loại TSMT trong hoạt động kinh doanh mà DN có phương pháp khấu hao phù hợp thay vì dùng phương pháp khấu hao theo đường thẳng. Giá trị dự phòng NPTMT nên được ước tính một cách đáng tin cậy bằng phương pháp giá trị hiện tại với tỷ lệ chiết

(25)

khấu là tỷ lệ lãi suất thị trường của trái phiếu Chính phủ. Đồng thời, DN tự thiết kế tài khoản chi tiết và biểu mẫu, nội dung của các sổ kế toán chi tiết để quản lý thông tin môi trường.

3.3.3.2 Hoàn thiện về xử lý, phân tích thông tin KTQTMT

Tuỳ vào nguồn lực, nhu cầu thông tin, mối quan hệ chi phí và lợi ích, tính nhạy cảm môi trường mà các DN khai khoáng tỉnh Bình Định có thể lựa chọn thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp phương pháp MFCA và ABC để quản lý CPMT. Ngoài ra, DN cần xây dựng chỉ số hiệu quả môi trường như một công cụ đánh giá rủi ro môi trường, thực hiện chiến lược môi trường (Bảng 3.2). Hơn nữa, các DN cần xây dựng thẻ điểm cân bằng bền vững như một công cụ tích hợp khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, quản lý bền vững (Bảng 3.3, Hình 3.1).

3.3.4 Hoàn thiện về cung cấp thông tin môi trường 3.3.4.1 Hoàn thiện về cung cấp thông tin KTTCMT

Các DN khai khoáng chưa niêm yết trên địa bàn tỉnh Bình Định cần hoàn thiện công bố thông tin môi trường trên các báo cáo tài chính thông qua bổ sung thông tin phi tài chính, trình bày thông tin môi trường thành một mục riêng trên thuyết minh. Trong khi đó, các DN niêm yết trước mắt hoàn thiện thông tin môi trường công bố trên báo cáo tài chính, báo cáo thường niên. Về lâu dài, thiết lập báo cáo môi trường độc lập theo khuôn khổ GRI thực hiện theo lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế mà Bộ Tài chính ban hành (Bảng 3.4).

3.3.4.2 Hoàn thiện cung cấp thông tin KTQTMT

Tác giả đề xuất một vài báo báo môi trường nội bộ thể hiện ở Bảng 3.5 và Bảng 3.6.

3.4 Các kiến nghị nhằm hỗ trợ thực hiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định

Xuất phát từ các nhân tố ảnh hưởng ở chương 2, tác giả kiến nghị đến các cơ quan quản lý nhà nước, các bên liên quan khác và chính bản thân DN để thúc đẩy thực hiện KTMT ở các DN này.

Kết luận chương 3

(26)

KẾT LUẬN CHUNG

KTMT là chủ đề nghiên cứu trong nhiều thập kỷ qua và đã lan toả từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển trên toàn thế giới.

KTMT có sự liên kết với phát triển bền vững vì nó ghi nhận, xử lý và cung cấp thông tin môi trường đến các bên liên quan hướng đến quản trị môi trường tốt hơn, giảm thiểu tác động môi trường. KTMT là lĩnh vực kế toán còn mới tại Việt Nam nên công trình nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ đóng góp vào dòng nghiên cứu học thuật cũng như nghiên cứu thực hành về KTMT tại Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung.

Về mặt học thuật, luận án thể hiện cơ sở lý thuyết về KTMT toàn diện, tập trung và đầy đủ trên các khía cạnh từ ghi nhận thông tin tài chính môi trường và thông tin phi tài chính môi trường, xử lý, phân tích thông tin môi trường bằng các phương pháp đo lường TSMT, NPTMT, CPMT, TNMT, phân bổ CPMT, phân tích hiệu quả môi trường đến công bố thông tin môi trường ở cả hai góc độ KTTCMT và KTQTMT.

Về mặt thực tiễn, luận án đã mô tả rõ KTMT đặc thù trong ngành khai khoáng tỉnh Bình Định. Đồng thời, luận án đã đo lường các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến KTMT được nhận diện trong các nghiên cứu trước. Kết quả nghiên cứu này cho thấy các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê và mối quan hệ cùng chiều với biến phụ thuộc, bao gồm: áp lực cưỡng chế từ các cơ quan quản lý nhà nước, áp lực các bên liên quan, nhận thức nhà quản trị cấp cao, trình độ nhân viên kế toán, đặc điểm DN. Các nhân tố này phù hợp với lý thuyết nền và các nghiên cứu trước.

Từ kết quả nghiên cứu của luận án, tác giả phân tích rõ nguyên nhân của các hạn chế để đưa ra một số giải pháp và kiến nghị đến các bên liên quan cùng với DN để họ chung tay góp sức thúc đẩy thực hiện KTMT tại Việt Nam nói chung và ngành khai khoáng tỉnh Bình Định nói riêng đáp ứng xu hướng phát triển bền vững toàn cầu và tiếp cận gần hơn với thông lệ quốc tế.

(27)

DANH MỤC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nguyễn Thị Mai Hương (2017), “Nghiên cứu ảnh hưởng các nhân tố đến công bố thông tin môi trường của các công ty niêm yết trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số 8/2017 (167), trang 33-35,52.

2. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nguyễn Thị Mai Hương (2018), “Rào cản tác động đến triển khai kế toán môi trường của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số 12/2018 (183), trang 15-19.

3. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nguyễn Thị Mai Hương, Đỗ Khánh Ly (2019),

“The factors affecting the environmental information reporting of listed companies in Vietnam”, Journal of Science and Technology, Vol 37 01/2019, 110-122.

4. Nguyễn Thị Kim Tuyến, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Mai Hương (2019), “Assessing the level of environmental information disclosure by listed companies on the stock market in Vietnam”, Journal of Problems and Perspectives in Management, Volume 17, Issue 3, p 207-217.

5. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2019), “Xây dựng thẻ điểm cân bằng bền vững tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định”, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, số 10/2019 (192), trang 55-59.

6. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2019), “Xây dựng chỉ số hiệu quả môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định”, Tạp chí Nghiên cứu khoa học Kiểm toán, số 145, tháng 11/2019, trang 41-48.

7. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2019), “Kế toán môi trường tại các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Bình Định”, Tạp chí Tài chính – Quản trị kinh doanh, số 16, tháng 12/2019, trang 65-72.

8. Nguyễn Thị Kim Tuyến (2020), “Studying factors affecting environmental accounting implementation in mining enterprises in Vietnam”, Journal of Asian Finance, Economics and Business, Vol 7, No 5, 131 – 144.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Hệ thống thiết kế đã ứng dụng và minh chứng các kĩ thuật truyền dữ liệu có dây và không dây, cùng với các cảm biến cần thiết có thể được sử dụng để theo dõi các

Nguyễn Văn Hạnh, Võ Xuân Hùng Trung tâm thông tin, dữ liệu biển và hải đảo Quốc gia Tóm tắt: Bài báo trình bày về việc xây dựng phần mềm quản lý và khai thác dữ liệu

Mô hình nghiên cứu giải pháp hệ BI hỗ trợ ra quyết định trong KTQT Nhận thức được vai trò quan trọng của chỉ số KPIs là công cụ giúp các nhà quản trị điều hành

Trong cơ chế hiện nay, các bệnh viện đƣợc quyền tự chủ tài chính, các nhà quản trị tài chính bệnh viện có khả năng tự quyết định những vấn đề cơ bản của bệnh viện Việc

Mặt khác, việc thiết lập chương trình tính toán độ bền bộ trục bánh xe đầu máy theo phương pháp truyền thống; thiết lập chương trình phân bổ độ tin cậy

Theo quan điểm của tác giả, tổ chức công tác kế toán của đơn vị SNCL là tổ chức bộ máy kế toán để thực hiện vận dụng các nguyên tắc, phương pháp kế toán tài chính và

Chính vì vậy đề tài ―Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực sản xuất rau tập trung tại ấp Thân Bình, xã Thân Cửu Nghĩa, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang‖ là

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện HTTT KTQT nhằm tạo ra một hệ thống mang lại hiệu quả, cung cấp thông tin một cách đầy đủ và kịp thời cho mục tiêu quản lý của nhà