• Không có kết quả nào được tìm thấy

Những ai đi lễ chùa và họ hành lễ như thế nào?

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Những ai đi lễ chùa và họ hành lễ như thế nào? "

Copied!
11
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Xã hội học thực nghiệm

Những ai đi lễ chùa và họ hành lễ như thế nào?

Hoàng Thu Hương

Hiện nay, trên khắp đất nước, người ta trùng tu, xây dựng chùa chiền. Những biểu hiện về niềm tin và nghi lễ Phật giáo có xu hướng gia tăng. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định rằng, các nghi lễ tôn giáo đã vắng bóng một thời gian dài trong chiến tranh và có xu hướng được khôi phục lại khi hòa bình được lập lại và có xu hướng khôi phục mạnh đặc biệt kể từ sau Đổi mới. Trước đây, trong dân gian có câu

“Trẻ vui nhà, già vui chùa”, thì nay, người đến chùa không chỉ là các cụ già mà còn có cả thanh thiếu niên và trung niên. Vấn đề nhận diện người đi lễ chùa trong các nghiên cứu xã hội học tôn giáo ở Việt Nam còn khá vắng bóng. Như PGS. Nguyễn Duy Ninh đã có nhận xét “Hiện nay, người ta nói chung chung là dòng người ào ạt lên chùa, nhưng họ là ai, lên chùa nào, vì mục đích gì thì chưa rõ” [6:322].

Hà Nội đang là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của cả nước. Từ sau

đổi mới, Phật giáo ngày càng phát triển do nhiều nhu cầu tâm linh khác nhau. Ngôi chùa ngày càng trở nên thân thiết hơn với đời sống tinh thần người Hà Nội. Vào các ngày lễ, tết, ngày rằm, mồng một, cổng chùa nào cũng tấp nập dòng người ra vào.

Người đến chùa thuộc nhiều nhóm xã hội khác nhau với sự đa dạng về cơ cấu lứa tuổi và giới tính. Tại sao hiện nay Phật giáo lại có sức thu hút khá mạnh mẽ nhiều tầng lớp nhân dân? Vai trò của Phật giáo trong đời sống của người dân hiện nay như

thế nào? Việc làm sáng tỏ cơ cấu người đi lễ chùa ở Hà Nội cũng như động cơ, mục

đích đi lễ của họ góp phần trả lời những câu hỏi đó.

Trong những năm gần đây, một số chùa ở Hà Nội có khả năng thu hút một lượng lớn người đi lễ chùa, chẳng hạn như Quán Sứ, Phúc Khánh, Chùa Hà. Mặc dù 3 chùa này đều là những chùa nổi tiếng và thu hút được đông người đến lễ, nhưng mỗi chùa lại có những đặc điểm riêng. Quán Sứ là Trụ sở của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Trường Cao đẳng Phật học. Do vậy, đây là chùa tập trung nhiều tăng, ni nhất trong thành phố. Ngược lại với tính chất chính thống của chùa Quán Sứ, chùa Hà hiện nay chưa có sư trụ trì, việc quản lý chùa thuộc về Ban quản lý chùa của

địa phương. Vấn đề chưa có sư trụ trì ở đây khá tế nhị, một số nhà quản lý tôn giáo và chức sắc của Phật giáo cho biết do hoạt động của chùa đem lại nhiều lợi ích cho địa phương nên họ không chấp nhận có sư trụ trì từ nơi khác đến. Trong khi đó, Chùa Phúc Khánh là một chùa mới thu hút được đông người đến lễ trong thời gian gần đây.

Thêm vào đó, Phúc Khánh gần đây nổi tiếng với một số hoạt động Phật giáo với quy mô lớn, như việc tổ chức quyên góp, xây dựng Đại Phật tượng (tượng Phật lớn nhất

(2)

Đông Nam á) và chùa Non ở Sóc Sơn, hay một số hoạt động thường xuyên khác như lễ cầu an và cúng sao giải hạn hàng năm thu hút tới hàng nghìn người. Vì vậy, việc lựa chọn 3 chùa lớn ở Hà Nội làm địa bàn khảo sát sẽ giúp chúng ta nhận diện được một số

đặc trưng nổi bật của cơ cấu người đi lễ chùa ở Hà Nội hiện nay.

Bài viết này dựa trên kết quả phỏng vấn sâu 30 người đi lễ chùa và 435 phiếu trưng cầu ý kiến người đi lễ chùa tại chùa Quán Sứ (137 phiếu), Phúc Khánh (124 phiếu) và chùa Hà (174 phiếu) do tác giả thực hiện trong năm 2002.

Kết quả nghiên cứu

1. Vài nét về tình hình Phật giáo ở Hà Nội hiện nay

Hà Nội là một trung tâm Phật giáo lớn của cả nước, thể hiện cả ở số lượng chùa chiền lẫn số lượng tăng, ni. Năm 1998, Hà Nội có 404 ngôi chùa, trong đó có 110 chùa được xếp hạng di tích lịch sử với 467 sư, trong đó có 4 hòa thượng, 13 thượng tọa [2]. Theo thống kê của Ban Tôn giáo ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội năm 2001 thì Hà Nội có 576 chùa (huyện Sóc Sơn có 111, huyện Gia Lâm có 104 ngôi chùa) với 4 Hòa thượng, 18 Thượng tọa, 1 Ni trưởng, 10 Ni sư, 606 tăng, ni. Học viện Phật giáo có 150 Tăng, ni sinh; Trường cơ bản Phật học có 75 tăng, ni sinh [1].

Về các hoạt động của Phật giáo ở Hà Nội hiện nay: Các nghi lễ ở chùa gồm có 2 loại chính: thứ nhất, các nghi lễ theo quy định của đạo Phật. Chẳng hạn như:

Tháng giêng có Lễ vía Đức Phật Di Lặc (1/1), Lễ Thượng nguyên (15/1), Lễ vía Đức Phật Thích Ca đản sinh (15/4) và bắt đầu mùa “an cư kiết hạ”, Lễ Quan âm Bồ tát

đắc đạo (19/6), Lễ Phật Thích ca đắc đạo (8/12),.... Thứ hai, các nghi lễ được tổ chức nhằm phục vụ nhu cầu của tín đồ như lễ cúng sao giải hạn, lễ cầu siêu, lễ bán khoán, lễ cắt giải tiền duyên, lễ chạy đàn, ... Ngoài ra, từng chùa còn có Lễ Tổ sư. Như vậy, các hoạt động nghi lễ Phật giáo hàng năm là khá phong phú.

Với số lượng chùa chiền và tăng, ni khá lớn, cùng với các hoạt động nghi lễ đa dạng, Phật giáo ở Hà Nội đang thu hút được một bộ phận dân cư thường xuyên đi lễ chùa. Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ thì “...đi chùa lễ Phật là một việc làm do

động cơ tỉnh ngộ thúc đẩy, với một tinh thần cố gắng vươn lên, gầy dựng cho mình một ngày mai sáng đẹp” và mục đích của đi lễ chùa “không phải là để cúng lạy mà vì

học hỏi chánh pháp, tập tu đức hạnh” [37-38]. Vậy trên thực tế, người dân đô thị đi lễ chùa có phải là học hỏi chánh pháp và tập tu đức hạnh hay không? Để giải đáp được câu hỏi này, chúng ta cần trả lời được khi nào họ bắt đầu đi lễ chùa? Họ là ai? Họ đi lễ với mục đích gì?

2. Thời điểm bắt đầu đi lễ chùa

Năm 1986 là một mốc thay đổi quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế

đất nước. Giai đoạn trước 1975, cả nước tập trung vào cuộc chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ, nên người dân ít có điều kiện đi lễ chùa. Giai đoạn 1975-1986, nước ta mới giành được độc lập, còn gặp nhiều khó khăn trong công việc tái thiết đất nước, con

(3)

người có nhu cầu đi làm để đảm bảo cuộc sống trước mắt, nên số lượng người đi lễ chùa không nhiều. Năm 1986, việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển đồng thời cũng tạo nên nhiều thách thức trong cuộc sống của người dân, đặc biệt là người dân

đô thị. Sau hơn 5 năm tiến hành cải cách kinh tế, vào năm 1992, sự phân hóa xã hội bắt đầu diễn ra rõ nét. Những người thích nghi nhanh với thị trường đã nhanh chóng giầu lên, còn những người khác thì đời sống vật chất rất ít thay đổi. Năm 1997, châu

á đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Nền kinh tế Việt Nam tuy không chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng này nhưng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ. Một lần nữa, cuộc sống của người dân vốn dĩ chưa đi vào quỹ đạo ổn định lại thêm khó khăn. Trong các giai đoạn này, chính sách tôn giáo có những thay đổi để phù hợp với điều kiện, tình hình mới của đất nước. Tuy nhiên, nhìn chung từ sau 1986 đến nay, nhu cầu vật chất của con người được cải thiện, họ có điều kiện quan tâm hơn đến nhu cầu tinh thần và đi lễ chùa là một hình thức đáp ứng nhu cầu tinh thần của họ. Như Đại đức Thích Minh Trí đã nói: “Có rất nhiều vấn đề mà không thể nói được với người trong gia đình, không tâm sự được với ai. Như vậy có nhu cầu đi lễ

để giải toả. Do đó từ 1990 đến nay có nhiều người đi lễ hơn. Đi lễ thể hiện nhu cầu hưởng thụ về tinh thần. Đi lễ để giải toả” (PVS số 20 tại chùa Quang Ân).

Liệu thực trạng người đi lễ chùa ở Hà Nội có phù hợp với những lập luận trên không? Việc khảo sát thời điểm đầu tiên đi lễ chùa của người dân Hà Nội theo những mốc thay đổi của đất nước cho thấy kết quả như sau:

Nơi khảo sát

Thời điểm Địa bàn khảo sát

Quán Sứ Phúc Khánh Chùa Hà Trước 1986 17 6 27

12.4% 5.0% 15.5%

Từ 1986 đến 1992 24 18 27

17.5% 15% 15.5%

Từ 1992 đến 1997 32 26 29

23.4% 21.7% 16.7%

Từ sau 1997 đến nay 64 70 91

46.7 58.3% 52.3%

Tổng 137 120 174

100% 100% 100%

Nhận xét: Số liệu trên cho thấy tỷ lệ người đi lễ chùa tăng theo thời gian, đặc biệt là qua những giai đoạn chuyển biến của đất nước. Tỷ lệ người bắt đầu đi lễ chùa

(4)

từ sau năm 1992, nhất là từ 1997 đến nay, chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu mẫu tại cả 3

địa bàn điều tra. Trong số những người đi lễ chùa được khảo sát, chỉ có 12,4% người

được hỏi ở Quán Sứ, 5% ở Phúc Khánh và 15,5% ở Chùa Hà trả lời là bắt đầu đi lễ chùa từ trước năm 1986. Còn tỷ lệ người bắt đầu đi lễ từ sau 1997 là 46,7% người

được hỏi ở Quán Sứ, 58,3% ở Phúc Khánh và 52,3% ở Chùa Hà. Mặc dù, ở cả 3 địa bàn khảo sát, tỷ lệ người bắt đầu đi lễ từ sau 1997 đều cao hơn so với các giai đoạn trước, nhưng khi so sánh 3 chùa đó với nhau ta thấy, tỷ lệ người bắt đầu đi lễ ở Phúc Khánh sau năm 1997 cao nhất, tiếp đó là Chùa Hà rồi đến Quán Sứ. Điều này cũng phù hợp nhận định ban đầu về đặc điểm từng ngôi chùa được chọn làm địa bàn khảo sát. Chùa Quán Sứ là một chùa có truyền thống và nổi tiếng từ lâu đời. Chùa Hà và Phúc Khánh là những chùa mới nổi tiếng và thu hút đông người đến lễ trong thời gian gần đây.

Như vậy, có sự gia tăng số lượng người đi lễ chùa theo thời gian, cùng với những thời điểm thay đổi chung của cả đất nước. Bên cạnh đó, cũng cần quan tâm tới yếu tố đặc điểm ngôi chùa khi xem xét số lượng, cơ cấu người đi lễ chùa.

3. Cơ cấu người đi lễ chùa hiện nay 3.1. Cơ cấu giới tính

Cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 1999 đã cho thấy tỷ lệ nữ tín đồ Phật giáo gần gấp 2 lần nam tín đồ. Vậy tỷ lệ người đi lễ chùa theo giới tính có tương

đương với tỷ lệ tín đồ hay không? Kết quả khảo sát cho thấy:

Nơi khảo sát Giới

Địa bàn khảo sát

Quán Sứ Phúc Khánh Chùa Hà

Nam 39 31 81

28.5% 25.8% 46.4

Nữ 98 89 93

71.5% 74.2% 53.4 Tổng 137 120 174

100% 100% 100%

Nhận xét: Tỷ lệ nữ giới đi lễ chùa cao hơn nam giới (71,5% số người đi lễ ở chùa Quán Sứ, 74,2% số người đi lễ ở Phúc Khánh và 53,4% số người đi lễ ở chùa Hà

được hỏi là nữ giới), điều này cũng phù hợp với suy nghĩ thông thường và quan sát thường ngày. Tỷ lệ nam/nữ ở chùa Quán Sứ và Phúc Khánh xấp xỉ 3/7 trong khi đó tỷ lệ nam/nữ ở chùa Hà lại gần tương đương nhau. Như vậy, cơ cấu theo giới của người đi lễ chùa và của tín đồ Phật giáo cũng gần tương đương.

Như vậy, có sự khác biệt về giới trong việc đi lễ chùa. Xét về khía cạnh tâm lý, nam giới thường được coi là phái mạnh, cứng rắn, mạnh mẽ và sống thiên về lý trí.

(5)

Trong khi đó, nữ giới được coi là phái yếu, dịu dàng, cả tin, sống thiên về tình cảm.

Hay theo quan điểm của các nhà lý thuyết chức năng giới cho rằng “nam giới được gán cho chức năng chuyên môn (công cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải, vật chất còn phụ nữ có chức năng biểu đạt (văn hóa, tình cảm) để tạo ra của cải tinh thần”. [4: 21].

Trong khi đó, một trong những nguồn gốc của tôn giáo đó là yếu tố tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của con người chẳng hạn như khi tâm lý sợ hãi, lo âu, đau buồn, tuyệt vọng, cô đơn, bất hạnh,... lặp đi lặp lại dễ tạo nên tâm thế khuất phục, không làm chủ được mình, dẫn đến ý thức về sự tồn tại của lực lượng siêu nhiên và tâm lý sùng bái thần linh. Do đó, nữ giới dễ có cảm giác lệ thuộc vào thần linh, dễ tin tưởng vào các đấng siêu nhiên, tối cao cũng như cần chỗ dựa về mặt tinh thần cao hơn nam giới. Thêm vào

đó, các không gian thờ tự thường mang màu sắc huyền bí, linh thiêng cũng dễ tác động

vào tâm lý của nữ giới hơn nam giới. Về vấn đề này, một nam trí thức cho rằng

"những việc như lễ đền, chùa thì thường nữ giới nhiều hơn nam giới... bởi vì, nữ giới yếu đuối hơn, cần chỗ dựa tinh thần hơn nam giới, ít có cách giải tỏa tâm lý hơn nam giới. Đàn ông mà buồn có thể chỉ cần cốc bia, điếu thuốc, tào lao với bạn bè là xong, còn phụ nữ thì không thể như thế, do vậy chỗ thư giãn của họ là đền, chùa" (PVS số 2, Nam, Cán bộ nhà nước, 53 tuổi).

Kết quả khảo sát gợi ra 2 vấn đề: thứ nhất, liệu có sự khác biệt giới nào trong

động cơ và mục đích đi lễ chùa hay không? Chính sự khác biệt này giúp chúng ta lý giải được sự khác biệt trong cơ cấu người đi lễ chùa. Thứ hai, liệu cơ cấu người đi lễ chùa có phụ thuộc vào đặc điểm của chùa hay không?

3.2. Cơ cấu theo tuổi

Cơ cấu tuổi của người đi lễ trong nghiên cứu này được chia thành 4 nhóm tuổi: Dưới 20; Từ 21 đến 40; Từ 41 đến 60 và Trên 60 tuổi. Khảo sát cơ cấu người đi lễ chùa theo các nhóm tuổi đó, ta thu được kết quả như sau:

Nơi khảo sát

Tuổi Địa bàn khảo sát

Quán Sứ Phúc Khánh Chùa Hà

Dưới 20 14 2 12

10.2% 1.7% 6.9%

Từ 21 đến 40 84 93 122

61.3% 77.5% 70.1%

Từ 41 đến 60 28 24 30

20.4% 20.0% 17.2%

Trên 60 tuổi 11 1 10

8.0% 0.8% 5.7%

Tổng 137 120 174

100% 100% 100%

(6)

Kết quả điều tra mẫu ở cả 3 chùa cho thấy người đi lễ chùa trong nhóm tuổi từ 21 đến 40 là phổ biến, tiếp đó là nhóm tuổi 41 đến 60. Tỷ lệ người đi lễ chùa trong độ tuổi dưới 20 và trên 60 là không đáng kể (đều dưới 10%). Những người dưới 20 tuổi ít đi lễ chùa là điều dễ hiểu bởi một trong những chức năng cơ bản của tôn giáo là đền bù hư

ảo, đáp ứng những mong muốn của con người ở tình trạng bất lực trong cuộc sống thường nhật. Phần lớn những nhu cầu của con người trong độ tuổi dưới 20 vẫn được gia

đình đáp ứng, do đó nhu cầu tìm chỗ dựa tinh thần và sự đền bù hư ảo chưa được xác

định rõ như các giai đoạn sau của cuộc đời. Tỷ lệ người đi lễ chùa đông trong độ tuổi 20

đến 60, mà đông nhất trong độ tuổi 21 đến 40 cũng có thể được lý giải là do đây là giai

đoạn con người phải đối diện với nhiều vấn đề nhất trong cuộc sống. Sự thất bại, tình trạng thiếu an toàn, các nhu cầu không được đáp ứng,... khá phổ biến trong giai đoạn này. Những ai không đủ khả năng vượt qua thường cần đến sự an ủi của tôn giáo. Đi lễ chùa là một trong những cách tìm chỗ dựa tinh thần, củng cố niềm tin cho con người.

Tuy nhiên, ở đây có một nghịch lý: tỷ lệ người trên 60 tuổi đi lễ chùa rất thấp, dưới 10%

ở cả 3 chùa khảo sát. Phải chăng, khi về già, con người không còn có nhu cầu tôn giáo?

Hay câu trẻ vui nhà, già vui chùa đã không còn phù hợp trong điều kiện hiện nay nữa?

Việc người già không đi lễ chùa vào thời điểm tiến hành khảo sát chưa đủ cơ sở

để kết luận rằng người già không có nhu cầu tôn giáo. Những quan sát trên thực tế cho thấy, nhu cầu tôn giáo của người già được thể hiện dưới một hình thức khác. Tại các chùa ở Hà Nội hiện nay đều có một loại hội gọi là Hội quy hay còn gọi là Hội các vãi, mà thành viên của hội này phần lớn là phụ nữ trên 55 tuổi. Hoạt động của hội này cũng khá phong phú, chẳng hạn như tụng kinh trên chùa hàng tuần, tham gia vào các khóa lễ, các ngày lễ chính của chùa, tổ chức hành hương tới các chùa khác, thăm hỏi gia đình các thành viên trong hội khi có người ốm đau hay tang ma,... Chẳng hạn vào chủ nhật hàng tuần, ở chùa Quán Sứ có tổ chức giảng kinh, mặc dù không có quy định về thành phần tới nghe giảng, nhưng những người tới dự thường xuyên là những người già, đã quy y. Trước khi vào nghe giảng kinh, họ đều lên chùa lễ Phật. Người già thường đi lễ chùa vào ngày thường trong tháng, còn thời điểm khảo sát của chúng tôi rơi vào ngày rằm, mồng một nên những người già đi lễ chùa trong mẫu không nhiều.

Nếu như việc đi lễ chùa của thanh niên và trung niên chủ yếu tập trung vào ngày rằm và mồng một thì phần lớn người già lại đi lễ chùa vào những ngày thường trong tháng. Điều này cũng có thể được lý giải là người già có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn thanh niên và trung niên, do đó họ có thể đi lễ vào bất cứ lúc nào họ thấy cần. Còn thanh niên và trung niên do bận với mưu sinh thường nhật, ít thời gian rảnh rỗi, khó có thể đi lễ chùa vào ngày thường, mà họ thường thu xếp đi lễ chùa vào ngày rằm, mồng một - những ngày cần phải cúng lễ đã đi vào tiềm thức của họ.

Hiện nay chùa chiền thu hút được sự tham gia của nhiều nhóm tuổi khác nhau bởi vì nó có khả năng đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của các nhóm tuổi. Nhà chùa thường mở cửa tất cả các ngày trong năm, tạo điều kiện cho mọi người có thể đến

(7)

lễ, đặc biệt là trong những ngày rằm, mồng một, ngày lễ chính của Phật giáo. Bên cạnh đó, các chùa còn có Hội quy dành cho những người có điều kiện tham gia. Ngoài ra, nhà chùa còn thực hiện một số khóa lễ theo yêu cầu của người dân như bán khoán, cúng sao giải hạn, cầu siêu,... mà trong nghiên cứu này chưa có điều kiện bàn đến.

4. Thực hành nghi lễ

Hành vi thực hiện nghi lễ của người đi lễ chùa trong nghiên cứu này được xem xét qua: việc chuẩn bị đồ lễ và nội dung cầu khấn.

Đồ lễ

Theo cuốn “Tập tục và nghi lễ dâng hương” của Thượng tọa Thích Thanh Duệ

“theo giáo lý nhà Phật thì linh thiêng hay không linh chẳng phải ở lễ vật dâng cúng to hay nhỏ, nhiều hay ít, sang trọng hay hèn mọn mà là trước hết ở tâm thành của người dâng lễ” tuy nhiên với “người thực thi tín ngưỡng thường nói vô vật bất linh” nên “không an tâm, thấy không đúng luật tục nếu như dâng hương lễ Phật mà lại thiếu những vật phẩm dâng lên hương án nơi Phật điện và các ban thờ khác trong Chùa”. Vì thế, khi vào Chùa nên “sắm các lễ chay như: Hương, hoa tươi, quả chín, oản phẩm, xôi chè,...” và

“không nên sắm sửa vàng mã, tiền âm phủ để dâng cúng, lễ Phật tại Chùa. Nếu có sửa lễ này thì chỉ được đặt ở ban thờ Thần linh, Thánh Mẫu hay ban thờ Đức Ông mà thôi...

Tiền thật cũng không nên đặt lên hương án của chính điện” [3:190-192].

Như vậy, theo luật tục nói chung của nhà chùa, thì lễ vật dâng cúng thường là: hương, hoa, quả, oản, xôi chè,.. Vậy trên thực tế người đi lễ chùa thường mang theo đồ lễ gì?

Nơi khảo sát

Đồ lễ Địa bàn khảo sát

Quán Sứ Phúc Khánh Chùa Hà

Hương 90 87 137

65.7% 72.5 78.7%

Hoa 68 78 100

49.6% 65.0% 57.5%

Quả 54 61 72

39.4% 50.8% 41.4%

Tiền cúng 66 78 90

48.2% 65.0% 51.7%

Vàng mã 37 53 64

27.0% 44.2% 36.8%

Khác 8 2 9

5.8% 1.7% 5.2

Tổng 137 120 174

100% 100% 100%

(8)

Nhận xét: hương, hoa là loại đồ lễ vẫn chiếm ưu thế nhất. Bên cạnh đó, tỷ lệ người đi lễ chùa mang theo vàng mã và đặt tiền cúng lên các ban thờ cũng khá cao mặc dù nhà chùa không lúc nào thiếu đèn nhang cũng như không khuyến khích thắp nhiều hương và đốt vàng mã trong chùa. Như vậy, ở đây có sự khác biệt giữa tục lệ của nhà chùa và thói quen thông thường của người đi lễ. Điều này, cho thấy người đi lễ chuẩn bị đồ lễ theo cách suy nghĩ của mình, mà như họ thường nói là theo “tâm”.

Điều này chứng tỏ người đi lễ chùa không hiểu biết sâu sắc về đạo Phật. Phải chăng họ đi lễ chùa vì nhiều nguyên nhân khác, hơn là vì chính bản thân đạo Phật? Có lẽ, trong quan niệm của nhiều người đi lễ chùa, Phật cũng là một đấng “thần linh”. Một người đi lễ chùa cho biết “Khi lễ chùa, bác thường có hương hoa, và bác có bỏ tiền công đức, để xây dựng chùa, giúp sư có điều kiện để lo việc truyền đạo. ... Bác mang theo hoa quả vì theo tục lệ, ở nhà cũng vậy, hoa quả để cúng Phật, trước cúng, sau

ăn” (PVS số 7, Nữ, Bác sỹ, 54 tuổi).

Có điểm đáng lưu ý là đồ lễ cũng có sự thay đổi theo thời gian. Tiền đang trở thành một loại đồ lễ mới. Nếu như trước đây, tiền lẻ chỉ dùng để bỏ vào tiền công

đức, thì hiện nay nó lại xuất hiện trên hương án với tư cách là một loại đồ lễ. Chúng tôi quan sát thấy, có một số người khi đi lễ, không hề đem theo bất cứ một loại đồ lễ truyền thống nào như hương, hoa, quả,... mà họ cầm theo tiền lẻ và đặt lên các ban thờ. Mặc dù tỷ lệ này chưa nhiều, nhưng nó đã đánh dấu sự xuất hiện của một loại

đồ lễ mới.

Vậy tại sao tiền lại trở thành một loại đồ lễ? Liệu trong tương lai, tiền lẻ có trở thành một loại đồ lễ phổ biến không?

Tiền có xu hướng trở thành một loại đồ lễ hiện nay, bởi một số đặc trưng của nó, như: thứ nhất, đó là tính gọn nhẹ. Các đồ lễ khác như hương, hoa, quả, vàng,...

đều cồng kềnh và tốn thời gian chuẩn bị hơn. Thứ hai, đồ lễ bằng tiền tránh được tình trạng lãng phí. Bởi ở bất cứ chùa nào, vào các ngày sóc, ngày vọng, người đi lễ chùa đều đem một lượng rất lớn hương, hoa, vàng mã,.. thường xuyên quá tải so với nơi đặt lễ: “... đi Phúc Khánh, chị thường mang tiền lẻ, chị không mang hương, cũng không mang vàng, vào những ngày đấy rất là đông, mình đi vào đấy cũng rất là khó lễ riêng nên chị bỏ vào hòm thôi” (PVS số 11, Nữ, Nhân viên văn phòng, 37 tuổi).

Tình trạng hương, hoa vừa đặt lên ban thờ đã có người đi thu dọn và vứt đi là phổ biến với các chùa lớn: “Không, hương, hoa trong chùa có nhiều rồi. Mình quan sát thấy có bà vừa để hoa, một lúc sau có vị đi thu và vứt ngay vào xe rác luôn vì đông và nhiều quá. Có người lại cho rằng thắp hương nhiều là rất tốt và họ thắp cả nắm.

Nhưng chỉ lát sau là có người dọn ngay đống hương đấy” (PVS số 10, Nữ, Giáo viên, 28 tuổi). Thêm vào đó, tình trạng đốt nhiều hương và vàng mã có ảnh hưởng không tốt đến việc duy trì các pho tượng cổ trong chùa, nên nhiều chùa hiện có treo bảng cấm người đi lễ thắp hương trong gian nhà thờ. Thứ ba, tiền cúng có ý nghĩa thiết thực với nhà chùa hơn. Nhà chùa có thể sử dụng các khoản tiền của tín đồ, người đi

(9)

lễ dâng cúng cho các công việc hữu ích cho nhà chùa: “Chị mang theo tiền không phải với nghĩa là tiền mua được tất cả, không coi trọng đồng tiền thế mà khi đứng trước cửa Phật thế, những ý nghĩ như thế đã là thất lễ rồi. Mà mang như thế với mục đích là góp giọt dầu để nhà chùa dùng những đồng tiền ấy vào những việc có lợi cho chùa.

Có thể nhiều người góp lại để họ xây, sửa chùa, có lợi cho chùa chứ Hương, hoa ai cũng mang nhiều, đến mức họ phải nhúng vào nước cho khỏi hỏng chùa. Đem những cái đấy nhiều người làm rồi, mình đem theo tiền để nhà chùa sử dụng vào những mục đích có ý nghĩa cho chùa, mình góp vào với ý nghĩa là giọt dầu” (PVS số 15, Nữ, Bác sỹ, 37 tuổi). Thứ tư, tiền được dùng làm tiền cúng thường có mệnh giá nhỏ, đa phần là tiền lẻ các loại 200, 500, 1000, 2000 đồng, tạo cho người đi lễ một cảm giác là họ chỉ là đóng góp tiền giọt dầu cho nhà chùa: “Khi đi lễ, chị không mang hương hoa, nhưng không bao giờ thiếu tiền đèn dầu. Bởi vì, hương hoa ở chùa cũng nhiều rồi, nếu mình có thắp cũng chỉ làm khói thêm thôi. Còn tiền đèn dầu để ủng hộ đền, chùa

để họ còn có cái chăm lo việc thờ cúng. (PVS số 7, Nữ, Bác sỹ, 37 tuổi).

Tiền trở thành một loại đồ lễ mới cho thấy tính thực dụng trong suy nghĩ và hành vi của người đi lễ chùa. Người đi lễ chùa hiện nay có ý thức khá rõ ràng trong việc sử dụng tiền cúng, trong khi đó, việc đặt lễ bằng hương, hoa, quả, vàng mã,..

thường không có được sự rõ ràng như vậy. Bởi các đồ lễ đó vốn là các đồ lễ truyền thống, trở thành thói quen trong tâm thức mỗi con người khi lễ chùa.

Tiền khác các loại đồ lễ khác ở tính biểu trưng của nó. Nếu như người ta vẫn cho rằng việc đốt nén hương là cách thức để giao tiếp với thần linh, với người đã

khuất, tức là đồ lễ được sử dụng để thể hiện sự tôn kính với thế giới thần linh - thế giới ảo. Trong khi đó, ý nghĩa của việc cúng tiền là phục vụ cho nhà chùa - cho một thế giới thực (họ cho rằng như thế tránh được lãng phí khi quá nhiều hương hoa phải vứt đi, để nhà chùa có thể sử dụng tiền vào các mục đích hợp lý hơn).

Kết quả khảo sát cũng cho thấy, có tới 65,0% người đi lễ ở chùa Phúc Khánh và 51,7% người đi lễ ở chùa Hà trả lời là có mang tiền cúng khi đi lễ, trong khi tỷ lệ này ở chùa Quán Sứ là 48,2%. Sự khác biệt về hành vi đặt tiền cúng của người đi lễ ở các chùa cho thấy dường như ngôi chùa cũng có tác động nhất định tới hành vi của người đi lễ.

Cầu khấn

Khi cúng lễ, con người thường có thói quen cầu khấn một cái gì đó. Đây là một thói quen, nhưng cũng đồng thời thể hiện tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của con người, bởi vì không ai lại đi cầu xin những cái mình không thích hay không muốn, họ chỉ cầu xin những cái mà họ cho là có giá trị đối với họ. Những giá trị đó chính là

động cơ để con người thực hiện hành động thờ cúng.

Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ những người không cầu điều gì cả khi đến chùa chỉ chiếm 1,7%. Qua nội dung những điều người đi lễ cầu khấn, ta có thể thấy

(10)

được được những giá trị mà họ coi trọng, đó là sức khỏe (70,1%), sự bình an (62,1%), sự nghiệp (44,3%), tài lộc (39,1%), tình duyên (24,7%) và giải quyết được những việc khó khăn (23,7%). Còn cầu giải thoát chỉ có 9.8%.

Nội dung cầu khấn (Kết quả khảo sát tại chùa Hà)

Số lượng %

Sự bình an 108 62.1 Giải quyết được những việc khó khăn 40 23.7 Tài lộc 68 39.1 Tình duyên 43 24.7 Sức khỏe 122 70.1 Trí tuệ sáng suốt 38 21.8 Sự nghiệp 77 44.3 Giải thoát 17 9.8 Cầu khác 31 17.8 Không cầu gì cả 3 1.7

Nội dung cầu khấn của nhiều người đi lễ là những giá trị liên quan trực tiếp

đến bản thân con người, không có giá trị mang tính tôn giáo: Bao giờ cũng cầu cho cả

nhà, trước tiên là sức khỏe, sau đó là cầu cho mấy đứa con ngoan, thành người, đấy là cái lo nhất nên bao giờ đi lễ cũng cầu xin về cái đó. Còn về tiền tài, danh vọng thì

không quên. Nhưng bao giờ cũng có một trình tự lễ như thế (PVS số 1, Nam, chuyên viên kinh tế, 46 tuổi ). Như vậy, dường như việc đi lễ chùa của nhiều người không phải vì tín ngưỡng của bản thân, mà vì cuộc sống hiện thực của mình, với những mong muốn cải thiện cuộc sống tốt đẹp hơn. Có thể nói rằng họ đến với tôn giáo nhằm phục vụ chính cuộc sống hiện thực của họ. Đạo vì đời - đó là một trong những đặc điểm tín ngưỡng của dân tộc Việt.

Kết luận

Hiện nay, đi lễ chùa là hoạt động văn hóa tinh thần của một bộ phận dân cư

Hà Nội. Những người đến chùa thuộc cả hai giới, mặc dù nữ giới vẫn đông hơn nam giới. Người đi lễ chùa thuộc nhiều độ tuổi khác nhau. Thanh niên và trung niên thường đi lễ chùa vào rằm, mồng một trong khi đó người già thường đến chùa vào các ngày thường. Số lượng thanh niên và trung niên đi lễ chùa từ năm 1992 đến nay chiếm ưu thế trong cơ cấu mẫu. Điều này cũng cho thấy, chùa chiền ngày càng thu hút được sự quan tâm của giới trẻ. Liệu điều này có nguyên nhân từ những thay đổi nhất định trong cách tổ chức hoạt động của chùa chiền? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần có những nghiên cứu sâu hơn.

Qua khảo sát những người đi lễ chùa ở Hà Nội hiện nay, có thể thấy được tính thực dụng trong hành vi đi lễ của họ. Nếu như trước đây đồ lễ là phương tiện để giao tiếp với thế giới siêu nhiên thì hiện nay bên cạnh các loại đồ lễ truyền thống, đang

(11)

xuất hiện một loại đồ lễ mới - đó là tiền - với tư cách là phương thức giao tiếp với thế giới thực - với ngôi chùa, với nhà sư. Ngay cả những điều tâm niệm khi đi lễ chùa, đa phần người đi lễ đều mong muốn những điều tốt đẹp cho cuộc sống hiện thực của họ trên trần thế chứ không phải là sự đền bù hư ảo tại một thế giới khác.

Tóm lại, ngôi chùa ở đô thị hiện nay đóng một vai trò khá quan trọng trong một bộ phận dân cư, bao gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau với những nhu cầu khác nhau. Ngôi chùa đang thể hiện khả năng đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các nhóm xã hội. Thành phần người đi lễ chùa ở 3 nơi khảo sát cho thấy sự chuyển biến trong đời sống đô thị. Trong khi đó, các ngôi chùa ở các vùng nông thôn thường thu hút chủ yếu là nữ giới đã hết độ tuổi lao động. Qua khảo sát bước đầu về cơ cấu người đi lễ chùa ở Hà Nội, chúng ta hiểu được sự chuyển biến trong cơ cấu người đi lễ chùa và thấy cần tiếp tục tìm hiểu cả những thay đổi về mặt tổ chức hoạt động của ngôi chùa để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các nhóm xã hội khác nhau.

Tài liệu tham khảo

1. Báo cáo Thực trạng và những giải pháp về công tác quản lý tôn giáo tại Hà Nội của Ban Tôn giáo ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội.

2. Ban Dân Vận Thành ủy Hà Nội: Đề tài “Đổi mới nội dung, phương thức công tác vận

động quần chúng tôn giáo, xây dựng cơ sở chính trị vùng giáo Hà Nội, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới ở thủ đô”.

3. Thích Thanh Duệ: Tập tục và nghi lễ dâng hương. Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội - 2002.

4. Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (Đồng chủ biên): Xã hội học về giới và phát triển.

NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội - 2000.

5. Một số vấn đề về xã hội học và nhân loại học ( Một số bài dịch ). Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội - 1996, trang 118-119.

6. Nguyễn Duy Ninh: Vài nhận thức sơ bộ về phương pháp điều tra tôn giáo học ở Hà Nội.

Trong: Chương trình KH-CN cấp Nhà nước KX04. Chính sách xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - 1993, trang 322.

7. Viện ngôn ngữ học: Từ điển Tiếng Việt. (Hoàng Phê chủ biên). Nhà xuất bản Đà Nẵng.

Trung tâm Từ điển học. Hà Nội - Đà Nẵng. 1996, trang 291.

8. Thích Thanh Từ: Bước đầu học Phật - Vào cổng chùa. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh - PL2536.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

– Chèng nhiÔm khuÈn : th«ng th−êng cho uèng Ganidan, Cloroxit hoÆc cã thÓ dïng mét sè lo¹i kh¸ng sinh nh− : Ampicilin, Bactrim (cÈn thËn víi trÎ nhá). – Chèng trôy tim

NÕu tæng cña chóng kh«ng lµ sè Palindrom th× lÆp l¹i qu¸ tr×nh trªn víi tæng ®ã cho ®Õn khi nhËn ®îc mét sè Palindrom.. Cho tríc mét m¶ng N sè nguyªn

- Yªu cÇu tõng häc sinh nghiªn cøu néi quy cña nhà tr-êng vµ viÖc thùc hiÖn néi quy cña b¶n th©n, cña tËp thÓ líp trong n¨m häc qua... Ng-êi ®iÒu khiÓn lÇn

điểm lâm sàng của viêm phổi do phế cầu không có sự khác biệt so với lâm sàng của viêm phổi do một s nguyên nhân khác (viêm phổi do vi khuẩn không điển hình, h n hợp phế

Sau mét thêi gian theo dâi, nhÊt lµ khi nghe chó TiÕn Lª khen tranh cña em g¸i, ng êi anh r¬i vµo tr¹ng th¸i

Các nghiên cứu cho thấy tiêm Bevacizumab nội nhãn làm giảm đáng kể nồng độ VEGF trong thủy dịch ở bệnh VMĐTĐ và có sự liên quan giữa nồng độ VEGF

Xuất phát từ tầm quan trọng và ý nghĩa trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu tình trạng sức khỏe răng miệng, nhu cầu điều trị và đánh giá hiệu quả một

T«i yªu trong n¾ng sím, mét thø n¾ng ngät ngµo, vµo buæi chiÒu léng giã nhí th¬ng, díi nh÷ng c©y ma nhiÖt ®íi bÊt ngê.. T«i yªu thêi tiÕt tr¸i chøng víi trêi ®ang ui