• Không có kết quả nào được tìm thấy

Truyền thông và phát triển nông thôn

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Truyền thông và phát triển nông thôn "

Copied!
6
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

Truyền thông và phát triển nông thôn

Mai Quỳnh Nam

I. Truyền thông là một dạng căn bản của hành vi con người trong xã

hội “Đó là cơ chế để các liên hệ của con người tồn tại và phát triển” (Cooley) Truyền thông tồn tại từ khi có con người, nhưng chỉ gần đây mới được nghiên cứu về mặt khoa học. Lý luận thông tin đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu truyền thông. Truyền thông được nghiên cứu theo lý luận ngôn ngữ học tâm lý, việc hiểu ngôn ngữ gắn liền với cơ chế tri giác. Xã hội học quan tâm tới tác động của cấu trúc xã hội, quan hệ xã hội trong quá trình truyền đạt, tiếp nhận thông tin.

Khái niệm truyền thông được sử dụng ở nhiều lĩnh vực. Theo nghĩa rộng nhất, nó là sự tạo ra mối liên hệ giữa các đối tượng có thể mang bản chất sự sống hay không. Khái niệm này không chỉ ứng dụng cho các quy trình hóa học, các trường lực vật lý, các quá trình tâm lý mà còn cho các phương thức hành vi trong xã hội.

Quá trình truyền thông nhằm thực hiện sự trao đổi qua lại về kinh nghiệm, tri thức, tư tưởng, ý kiến, tình cảm. Người ta có thể sử dụng các hệ thống ký hiệu khác nhau theo dạng phi ngôn từ hoặc ngôn từ để thông báo.

M.Weber cho rằng có thể hiểu truyền thông như là phương tiện của tương tác xã hội, làm sáng tỏ các ý nghĩa chủ quan của một bên là hành động xã hội và bên kia là định hướng xã hội.

Người ta thống kê được có khoảng 160 định nghĩa khoa học xã hội cho thuật ngữ truyền thông (Merton) và đã phân chia truyền thông theo chuẩn cấu trúc: loại có cấu trúc một chiều, truyền thông như là truyền dẫn, như là hành động kích thích phản ứng, loại có quá trình cấu trúc đối xứng, truyền thông như là thông hiểu, như là trao

đổi, như là tham gia, như là quan hệ. ở đây, vấn đề tương tác rất được coi trọng.

Người ta nhất trí rằng: truyền thông là một phạm trù cơ bản, qua đó các hệ thống xã hội được hình thành và phát triển. Do có truyền thông mà các thành tố xã

hội, hệ thống con người, các hệ thống xã hội bao gồm cả hệ thống con, hệ thống lớn liên tiếp được cải biến và phân hóa.

Sự phát triển của xã hội học cho thấy, ngay từ đầu, hiện tượng truyền thông

đã ở vị trí trung tâm. Nó được xem là khái niệm cơ bản của xã hội học. Người ta nhận rõ ý nghĩa quan trọng của truyền thông đối với quá trình xã hội hóa con người cũng như việc hình thành và phát triển các cộng đồng người. Đặc biệt, ngày nay, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò hết sức to lớn trong đời sống xã hội, nó tham gia ngày càng tích cực vào hoạt động tổ chức, quản lý xã hội.

(2)

II. Vấn đề phát triển trong sự quan tâm của khoa học xã hội:

Các nhà xã hội học tiền bối: A.Comte, H.Spencer đã có sự quan tâm tới phát triển. Khi đó, người ta đã ý thức được cần phải xây dựng lý thuyết về các giai đoạn phát triển và nhấn mạnh tới yếu tố tiến hóa trong phát triển. Những nỗ lực của A.Comte trong thuyết ba giai đoạn, hay cách nhìn xã hội theo kiểu sinh học của H.Spencer cho thấy điều này.

Với tư cách là một khái niệm cơ bản không chỉ trong xã hội học phát triển, khái niệm phát triển đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong đời sống xã hội. Nó cho phép nghiên cứu khả năng thay đổi, sự thay đổi từ hoàn cảnh xuất phát cũng như phạm vi tác động của nó, qua đó có thể giải thích về các nguyên nhân và hiệu quả của phát triển nhằm phục vụ hoạt động tổ chức, quản lý các quá trình xã hội theo các định hướng xã hội nhất định.

Khái niệm phát triển đã tạo ra những cuộc tranh luận trong các nhà chuyên môn. Một số nhà nghiên cứu xuất phát từ trạng thái kém phát triển tập trung vào sự nghèo khổ, coi đây là đặc trưng chủ yếu để nhìn nhận phát triển. Những người khác lại coi sự hạn hẹp của thị trường và tăng trưởng dân số quá cao là nguyên nhân dẫn đến trì trệ. Một số học giả thường có xu hướng gắn phát triển với tăng trưởng kinh tế, thậm chí đóng khung sự phát triển xã hội vào tăng trưởng kinh tế.

Hiện nay, trong một số giới nghiên cứu về phát triển và kém phát triển lấy nội dung do Liên hiệp quốc đưa ra làm căn cứ, phát triển được hiểu là một quá

trình trong đó toàn thể loài người áp dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ vào những mục tiêu của mình qua những thời kỳ khác nhau với tính hoàn toàn không đảo ngược của quá trình đó.

Một tài liệu khác của ủy ban môi trường và phát triển thế giới cho rằng:

"Phát triển bao hàm một sự biến đổi kinh tế và xã hội không ngừng... ngay cả khái niệm hẹp về sự bền vững vật chất cũng hàm chứa mối quan tâm với bình đẳng xã

hội, giữa các thế hệ, mối quan tâm cần được mở rộng một cách hợp lý tới sự bình

đẳng trong các thế hệ"1

ở Việt Nam, phương thức phát triển được xác định là thực hiện có hiệu quả

các mục tiêu kinh tế - xã hội. Chúng ta không đối lập giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện các mục tiêu xã hội.

Mục tiêu xã hội được đưa lên hàng đầu trong sự phát triển, vì nếu con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển thì không thể hy sinh con người cho phát triển "Chúng ta chọn phương thức phát triển mà cái kinh tế và cái xã hội sẽ hòa nhập vào nhau. Sự phát triển khác với sự tăng trưởng. Tăng trưởng về số lượng, còn phát triển có tính chất lượng. Tăng trưởng là sự tiến bộ cục bộ về kinh tế. Phát triển

1 Dẫn theo: Jean-Guyuaillan Court: Phát triển bền vững: nguồn gốc và khái niệm. Tạp chí Xã hội học số 2 (70).2000. tr.88.

(3)

là sự tiến bộ toàn diện về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi sinh"2. Quan điểm phát triển toàn diện như vậy dựa trên phép biện chứng Mác xít.

Phép biện chứng Mác xít chỉ ra rằng bản chất của phát triển là sự vận động theo hướng đi lên của bản thân sự vật, hiện tượng, giới tự nhiên, con người và xã hội.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử thì xã hội được cấu thành bởi các quan hệ xã hội chặt chẽ và phức hợp: quan hệ con người - con người, con người - xã hội, con người - tự nhiên. Sự phát triển của một xã hội diễn ra bởi các mâu thuẫn cơ bản trước hết là mâu thuẫn sản xuất và tiêu dùng, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa nhu cầu, lợi ích và khả năng đáp ứng các nhu cầu, lợi ích.

Vì vậy, sự thúc đẩy xã hội đi lên là do các yếu tố lợi ích con người, hoạt động xã hội, cải tạo xã hội, khắc phục các bất bình đẳng xã hội, tạo nên các quan hệ tích cực trong cơ cấu xã hội và trong hành vi xã hội.

Nền tảng phát triển trước hết chính là sản xuất vật chất, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, nền đại công nghiệp, trình độ quản lý khoa học, quản lý kinh tế, xã hội là những nguồn lực và động lực của phát triển.

Bên cạnh việc xem yếu tố kinh tế là chỉ số có tính quyết định sự phát triển xã

hội, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin không xem nhẹ các yếu tố tinh thần, văn hóa, chính trị, pháp quyền trong phát triển.

III. Trong thời đại ngày nay, không có chiều cạnh nào của phát triển tách rời hoạt động truyền thông

Hoạt động truyền thông chỉ có ý nghĩa khi nó kích thích được lợi ích của đối tượng tiếp nhận, thuyết phục họ về mặt nhận thức, tạo cho họ hành động chung. Từ ý nghĩa đó, người ta nhận thấy khả năng truyền bá rộng lớn của hoạt động truyền thông trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển.

Các phân tích về cơ chế từ tác động truyền thông đối với hành động của con người cho thấy: bằng việc cung cấp thông tin, kiến thức, thông qua các kênh, hay một con đường nào đó đến với đối tượng tiếp nhận, đối tượng tiếp nhận hiểu và có khả

năng làm theo sự chỉ dẫn của thông tin đã tạo nên hành động của các cá nhân và các tập đoàn người.

Sự quảng bá thông tin được thực hiện trong quá trình truyền thông luôn luôn gắn liền với các điều kiện xã hội cụ thể, trong đó diễn ra các hoạt động sống với các phương thức sinh hoạt của đối tượng tiếp nhận thông tin.

Giữa thông điệp truyền thông và đối tượng tiếp nhận có mối liên hệ chặt chẽ.

Một số thông điệp có thể quảng bá với nhóm công chúng lớn. Một số thông điệp khác chỉ

đến với một bộ phận công chúng nhất định. Do vậy, trong hoạt động truyền thông vì các

2 Nguyễn Hồng Phong: Một số vấn đề về hình thái kinh tế xã hội văn hóa và phát triển. Nxb. Khoa học xã

hội. Hà Nội - 2000. Tr. 391.

(4)

mục tiêu phát triển không thể chỉ quan tâm đến các mục tiêu chung mà phải xem xét các điều kiện thực tế của các nhóm đối tượng tiếp nhận để thiết lập các kênh truyền và các nội dung thông điệp sao cho phù hợp với đặc trưng xã hội của các nhóm người.

Các khác biệt xã hội được phản ánh trong cơ cấu xã hội đã dẫn đến sự lựa chọn các thông điệp tạo nên sự quan tâm của công chúng. Dựa vào tính chất này, các thiết chế truyền thông xác định cho mình đối tượng truyền tin và tạo lập các kênh thông tin thích hợp. Thông điệp có ý nghĩa rất quan trọng. Thông điệp là nội dung thông tin được truyền đến đối tượng tiếp nhận. Nó là cái mà chủ thể truyền thông xác lập nên mối quan hệ với công chúng. Với vai trò là tác nhân của sự phát triển, hoạt động truyền thông thực chất là quá trình phê phán cái cũ, bổ sung, hoàn thiện nhân rộng cái mới, cái tích cực trong môi trường xã hội để cải thiện các quan hệ xã

hội. Những tính chất cơ bản mà thông điệp truyền thông cần phải có như tính kịp thời, trung thực, có sức thuyết phục và đặc biệt là khả năng ứng dụng rộng rãi cần

được các nhà truyền thông coi trọng trong hoạt động chuyên môn của họ.

Trên thế giới ngày nay, nhu cầu thông tin và được thông tin ngày càng lớn và

đa dạng. Quốc gia càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng cao. Dân trí càng mở mang đòi hỏi thông tin càng nhiều mặt. Như vậy, hoạt động cung cấp thông tin rộng rãi về các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá vừa là mục tiêu đồng thời cũng là phương tiện của sự phát triển.

Vấn đề này xuất phát từ cơ sở lý luận về hoạt động và quá trình nhận thức.

Tâm lý học giải thích rằng người ta hành động theo cách người ta suy nghĩ. Người ta suy nghĩ trên cơ sở thông tin người ta tiếp nhận được. Không có hoạt động truyền thông hoặc truyền thông không đầy đủ thì không thể có suy nghĩ đúng và do đó cũng không có hành động đúng.

Theo chỉ dẫn của M.Weber, người ta thấy rõ ràng là hành động xã hội theo các giá trị và chuẩn mực xã hội được truyền bá trong quá trình truyền thông, được thực hiện từ sự thấu hiểu của các cá nhân, các cộng đồng người. Vì thế, truyền thông

được coi là cái tạo nên khuôn mẫu hành động. Nguyên lý đó có khả năng ứng dụng rất to lớn. Nó có giá trị trong mối quan hệ giữa truyền thông với các nhóm người, các tập đoàn người, hay các tổ chức xã hội. ảnh hưởng của nó còn rộng lớn hơn và trở thành một khả năng của truyền thông là liên kết và hội nhập các cộng đồng người trong phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế.

IV. Truyền thông, tác nhân phát triển nông thôn

Trước hết, cần xuất phát từ vai trò của nông thôn, nông nghiệp trong đời sống kinh tế - xã hội. Tính đến năm 2000, nông nghiệp nước ta liên quan đến tạo việc làm, thu nhập đời sống của 75,4% dân cư, trên 60% lao động xã hội, tạo ra 24% GDP và trên 30% kim ngạch xuất khẩu. Điều này cho thấy vai trò của nông thôn, nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế - xã hội.

(5)

Đảng và Nhà nước ta xác định tầm quan trọng của phát triển nông thôn và nông nghiệp. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: trong 10 năm tới cần “Tăng cường chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, nông thôn lên trình độ mới”, với các biện pháp chủ yếu:

ư Phát triển thị trường, tổ chức tiêu thụ nông sản, hàng hóa sản xuất từ nông thôn.

ư Phát triển công nghệ, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ.

ư Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn.

ư Tăng cường năng lực kinh tế hộ, mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hộ tập thể và các hình thức kinh tế khác trong nông nghiệp, nông thôn.

ư Xây dựng chính quyền cơ sở và hệ thống chính trị, tiếp tục hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu lực chỉ đạo của nhà nước.

Các biện pháp đó chỉ có thể thực hiện thành công bằng con đường tổ chức, thuyết phục quần chúng nhân dân, trên cơ sở hoàn thiện chính sách và năng lực điều hành của hệ thống quản lý xã hội. Hoạt động truyền thông cần tạo ra khả năng tổ chức quần chúng vì các mục tiêu của phát triển từ định hướng xã hội, quảng bá các khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội, chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ, kiểm soát xã

hội… Việc tiếp cận thông tin còn có thể tạo ra sức ép không chính thức phải thi hành các chuẩn mực của cộng đồng với vai trò là vốn xã hội trong phát triển.

Thực tế hoạt động truyền thông cho thấy, các phương tiện truyền thông đại chúng rất có ưu thế trong việc phổ biến các chính sách chung, trên bình diện chung cho các bộ phận dân cư. Đây là một tác nhân để thực hiện dân chủ hoá các quá trình xã hội và quan hệ xã hội trong những phạm vi rộng lớn, nó vượt qua khuôn khổ hạn hẹp của nền dân chủ làng xã. Nhân tố công khai của truyền thông đại chúng làm hạn chế khả năng độc quyền thông tin vốn có trong cơ chế truyền thông trực tiếp, chỉ bó hẹp ở một vài tầng lớp xã hội. Thông qua cơ chế giao tiếp đại chúng, khả năng truyền và tiếp nhận thông tin của quần chúng được mở rộng hơn cơ chế giao tiếp trực tiếp từng được phổ biến trong các xã hội cổ truyền.

Tài liệu thống kê dân số, kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1975 –2001 cho thấy: ở đô thị có 76,73% số hộ có ti vi, số hộ có radio là 56,04%. ở nông thôn, số hộ có ti vi là 46,45%, có radio là 41,87%3. Điều này cho thấy sự bất bình đẳng trong khả

năng tiếp nhận thông tin ở bộ phận công chúng nông thôn so với công chúng đô thị.

Nó cũng phản ánh các bất bình đẳng về kinh tế, văn hoá, điều kiện cư trú của các

3 Nguồn: Số liệu thống kê dân số, kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1975 –2001. Nhà xuất bản Thống kê.

Hà Nội – 2002. Tr. 222.

(6)

tầng lớp dân cư nhất là ở bộ phận dân cư có thu nhập thấp ở nông thôn so với bộ phận dân cư đô thị. Việc khắc phục các bất bình đẳng nói trên là nhân tố quan trọng

để tạo điều kiện cho các bộ phận dân cư nông thôn, nông nghiệp tham gia vào dòng truyền thông đại chúng vì các mục tiêu phát triển.

ở nông thôn, vai trò của các đội thông tin tuyền truyền cơ sở có ảnh hưởng

đáng kể trong hoạt động truyền thông về các chính sách phát triển dành cho các nhóm người cụ thể như truyền thông: xoá đói giảm nghèo, dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khoẻ ban đầu… Đối với một quốc gia còn đến 80% dân số nông thôn, gắn với sản xuất nông nghiệp, khả năng điện khí hoá còn hạn chế, thu nhập của nhân dân còn thấp, thì không thể xem nhẹ hoạt động truyền thông trực tiếp. Ưu thế nổi bật của cơ chế truyền thông này là khả năng phổ biến thông điệp trực tiếp cho công chúng.

Bằng cách ấy mối liện hệ ngược diễn ra nhanh chóng, các sai sót trong quá trình hiểu và hành động theo chỉ dẫn của thông điệp có thể được bổ sung kịp thời.

Nghiên cứu truyền thông và phát triển là một vấn đề mới. Phát triển là một khái niệm động, vì vậy quan hệ giữa truyền thông và phát triển cũng là quan hệ

động. Một mặt, quan hệ này phụ thuộc vào bối cảnh xã hội, mặt khác, nó cũng phụ thuộc bởi chính quá trình truyền thông.

Phát triển bao hàm nhiều lĩnh vực, do đó, nghiên cứu về truyền thông và phát triển nói chung về phát triển nông thôn nói riêng được thực hiện ở bình diện chung là không đủ, cần phải phân tích sâu quan hệ giữa truyền thông và phát triển nông thôn trên các lĩnh vực cụ thể và ở các phạm vi hoạt động truyền thông cụ thể.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn

1. G. Endruweit và G. Trommsdorff: Từ điển xã hội học. Nguỵ Hữu Tâm và Nguyễn Hoài Bão dịch. Nxb Thế Giới. Hà Nội - 2001.

2. Nguyễn Văn Huyên: Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội - 2002.

3. Jean - Guyuaillan Court: Phát triển bền vững: nguồn gốc và khái niệm. Tạp chí Xã hội học số 2 (70), 2000.

4. Nguyễn Hồng Phong: Một số vấn đề về hình thái kinh tế - xã hội, văn hoá và phát triển.

Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội - 2000.

5. Thống kê dân số, kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 1975 - 2001. Nxb Thống kê. Hà Nội - 2002.

6. Mai Quỳnh Nam: Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng. Tạp chí Xã hội học số 2 (70), 2000.

7. Nhiều tác giả: Tư duy phát triển hiện đại - một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội - 2003.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Vì oâng laø ngöôøi nöôùc ngoaøi, khoâng phaûi laø coâng daân Vieät Nam, oâng khoâng coù quoác tòch Vieät Nam.... Quyền có

[r]

Berry (1985) “A Conceptual Model of Service Quality and Its Implications for

Tại Việt Nam pemetrexed kết hợp Cisplatin đ đƣợc đƣa vào điều trị cho bệnh nhân UTPKTBN, đ có một số nghiên cứu của các tác giả tại Việt Nam hiệu quả

[r]

[r]

(2005), Econometric Analysis of Panel Data, West Sussex, England, John Wiley

Lời đó không dễ nghe nhưng khó bác vì ta thấy khi xét về hình thức VBND, NBS nói rõ “Xét về mặt hình thức, văn bản nhật dụng có thể được thể hiện bằng hầu hết các thể