• Không có kết quả nào được tìm thấy

PHÂN TÍCH NGỮ DỤNG TRONG DỊCH THUẬT TỪ GÓC ĐỘ GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "PHÂN TÍCH NGỮ DỤNG TRONG DỊCH THUẬT TỪ GÓC ĐỘ GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA "

Copied!
7
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

PHÂN TÍCH NGỮ DỤNG TRONG DỊCH THUẬT TỪ GÓC ĐỘ GIAO TIẾP LIÊN VĂN HÓA

Võ Trung Định Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế Email: votrungdinh@gmail.com

Tóm tắt: Dịch thuật từ lâu đã trở thành một mắt xích quan trọng của giao tiếp liên văn hóa. Hoạt động dịch thuật không những đòi hỏi người dịch phải có kĩ năng phân tích văn bản, kiến thức chuyên ngành, am hiểu văn hóa của ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích mà còn phải nhạy bén, tinh tế và sáng tạo, vận dụng đúng ngữ cảnh, phải từ bối cảnh của ngữ cảnh và văn hóa nắm được hàm nghĩa ngữ dụng. Từ đó cho thấy việc phân tích ngữ dụng trong dịch thuật có thể phát triển theo hướng làm thế nào để một bản dịch được hay hơn và sát nghĩa hơn.Trong quá trình dịch thuật, người làm công tác biên phiên dịch có thể áp dụng Lý thuyết hành động ngôn từ của Austin vào việc phân tích ngữ dụng trong ngôn bản nguồn, từ đó hiểu rõ hơn mục đích giao tiếp. Khi hiểu được mục đích giao tiếp, thì người dịch có thể hiểu toàn diện hơn ngữ nghĩa của ngôn bản, từ đó bản dịch sẽ chính xác hơn, hoàn thiện hơn.

Từ khóa: ngữ dụng, dịch thuật, giao tiếp liên văn hóa, lý thuyết hành động ngôn từ

1. Mở đầu

Trong bối cảnh quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ vô cùng mạnh mẽ, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 lan tỏa sâu rộng trên phạm vi toàn cầu, kéo các đất nước lại gần với nhau hơn bao giờ hết thì nhu cầu giao tiếp, giao thương giữa các quốc gia, các nền văn hóa ngày càng tăng trưởng vượt bậc. Với sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông hiện đại, tiên tiến, các nền văn hóa trên khắp thế giới có cơ hội giao lưu, đối thoại, học hỏi lẫn nhau không ngừng nghỉ. Trong bối cảnh ấy, giao tiếp liên văn hóa đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống xã hội đương đại, trở thành lĩnh vực được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó có dịch thuật.

Ngôn ngữ và văn hóa luôn song hành với nhau. Bởi vì ngôn ngữ là một sản phẩm đặc biệt của xã hội, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển nền văn hoá của một dân tộc, do đó khi nghiên cứu, học hỏi, giao tiếp hay dịch thuật ngôn ngữ nào đó, chúng ta không thể không xem xét nó dưới các góc nhìn văn hóa. GS.Cao Xuân Hạo trong sách Tiếng Việt văn Việt người Việt đã đưa ra nhận định rằng:

―Giữa tiếng nói của một dân tộc với nền văn hoá của dân tộc ấy chắc chắn phải có một mối quan hệ nhất định. Vì ngôn ngữ trực tiếp phản ánh cách tri giác và tư duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hoá dân tộc không thể không liên quan đến cách tri giác và tư duy ấy.‖ [trang 287] Ngôn ngữ của một đất nước phản ánh và truyền tải nền văn hóa của đất nước đó. Có thể nói, khi học tập bất kỳ một ngôn ngữ nào trên thế giới, thì ngôn ngữ là cánh cửa đưa bạn bước vào đất nước đó, còn văn hóa chính là phương tiện giúp bạn giao tiếp và thấu hiểu bản sắc của dân tộc đó. Mối quan hệ đặc thù giữa ngôn ngữ và văn hoá từ lâu đã được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm nghiên cứu.

Do đó, người làm công tác dịch thuật, cho dù là phiên dịch hay biên dịch thì không những phải thành thạo ít nhất hai ngôn ngữ (ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích), mà còn phải am hiểu văn hóa của hai ngôn ngữ đó.Trong quá trình dịch, người dịch không chỉ đơn thuần làm công việc chuyển nghĩa của bản gốc sang nghĩa tương đương ở bản dịch mà phải tìm ra được sự khác biệt giữa nội hàm từ ngữ

(2)

của hai nền văn hóa đó. Điều này cho thấy, dịch thuật đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các nền văn hóa khác nhau hay nói cách khác, dịch thuật là phương tiện giao tiếp liên văn hóa.

2. Cơ sở lý luận

2.1. Giao tiếp liên văn hóa và năng lực giao tiếp liên văn hóa

Giao tiếp liên văn hóa là một xu hướng tất yếu và nổi bật trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay khi nhu cầu giao lưu giữa các quốc gia trên thế giới đang diễn ra một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, giao tiếp liên văn hoá đã tồn tại từ xa xưa, song đến thế kỷ XXI đã trở thành một vấn đề có ý nghĩa toàn cầu.

Hall và Trager (1954) cho xuất bản sách Văn hóa là giao tiếp, giao tiếp là văn hóa (Culture is communication and communication is culture), đây được coi là năm đánh dấu sự ra đời của chuyên ngành ngành giao tiếp liên văn hóa. Đến năm 1959, E.Hall tiếp tục ra mắt cuốn sách Ngôn ngữ thầm lặng (The Silent Language), chứng minh thêm mối quan hệ vô cùng gắn bó giữa văn hóa và giao tiếp.

Trong công trình này, Hall đưa ra hai thuật ngữ là giao tiếp nội văn hoá (intracultural communication) và giao tiếp liên văn hoá (intercultural communication). Giao tiếp nội văn hóa là giao tiếp giữa các thành viên trong cùng một nền văn hóa, còn giao tiếp liên văn hóa là giao tiếp giữa các thành viên đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Từ đó, các thuật ngữ như giao thoa văn hóa (cross-cultural), đa văn hóa (multiculturalism), sốc văn hóa (culture shock)...liên tiếp ra đời trong các cuộc tranh luận về giao tiếp liên văn hóa.

Có thể nói, giao tiếp liên văn hóa chính là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan khác nhau. Hoạt động này không chỉ đòi hỏi các bên giao tiếp có năng lực ngôn ngữ mà cần có những hiểu biết về các nền văn hóa khác ngoài văn hóa bản địa của họ.Trong quá trình giảng dạy ngoại ngữ, giáo viên cần chú trọng bồi dưỡng cho người học năng lực giao tiếp liên văn hóa (intercultural communicative competence).

Theo Deardorff, ba yếu tố cấu thành của năng lực giao tiếp liên văn hóa là kiến thức (knowledge), kĩ năng (skills) và thái độ (attitudes). Kiến thức bao gồm kiến thức về ngôn ngữ, kiến thức đặc thù văn hóa và biết nắm bắt những xu hướng mang tính toàn cầu. Kỹ năng bao gồm các kỹ năng như quan sát, đánh giá, phân tích, phê phán... các vấn đề mang tính văn hóa, có ý nghĩa văn hóa. Thái độ bao gồm sự tôn trọng các nền văn hóa khác biệt, trân trọng sự đa dạng văn hóa và sẵn sàng học hỏi, thu nhận các yếu tố văn hóa khác biệt... [dẫn theo Nguyễn Quang, 2016: 6-7]

Có thể nói năng lực giao tiếp liên văn hóa là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năngsử dụng vốn ngoại ngữ đã học, khả năng giao tiếp xã hội và khả năng điều chỉnh thái độ, hành vi của người học trong nhiều ngữ cảnh giao tiếp đa văn hóa khác nhau. Do đó gần đây khái niệm ―dạy ngôn ngữ‖ còn được gọi là ―dạy ngôn ngữ liên văn hóa‖ (intercultural language teaching), bởi vì trong các lớp ngoại ngữ, nếu chúng ta chỉ tập trung vào các yếu tố bên trong ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, ngữ nghĩa... mà quên đi những yếu tố bên ngoài của ngôn ngữ như xã hội và văn hóa, thì người học dần dần sẽ bị thui chột và đánh mất đi năng lực giao tiếp liên văn hóa.

Trên thực tế, năng lực giao tiếp liên văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn cả quốc gia. Đối với mỗi cá nhân, nếu trang bị cho mình một năng lực giao tiếp liên văn hóa tốt thì sẽ giúp cá nhân đó tự tin khi giao tiếp đa văn hóa, từ đó người giao tiếp sẽ không cảm thấy lạc lõng, tự ti hay gặp rào cản gì lớn trong quá trình giao tiếp liên văn hóa, hơn nữa còn giúp họ có được sự hiểu biết và khoan dung với các khác biệt văn hóa cũng như khả năng dung hòa sự khác

(3)

biệt giữa các giá trị văn hóa và năng lực biểu đạt để không gây trở ngại khi giao tiếp mà vẫn gìn giữ được bản sắc văn hóa riêng của mình.

Đối với mỗi quốc gia, năng lực giao tiếp liên văn hóa tốt sẽ thúc đẩy nền ngoại giao văn hóa phát triển vững mạnh, góp phần truyền bá hữu hiệu bản sắc văn hóa dân tộc ra toàn thế giới, vun đắp tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nền văn hóa khác ở các quốc gia, các dân tộc khác, từ đó góp phần phát triển đất nước ngày một văn minh hiện đại, sánh vai các cường quốc trên thế giới.

2.2. Vai trò của dịch thuật trong giao tiếp liên văn hóa

Dịch thuật đóng một vai trò quan trọng trong bất kỳ thời đại nào, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa sâu rộng hiện nay. Hoạt động dịch thuật thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau trên phạm vi toàn thế giới, từ đó dịch thuật đã trở thành một mắt xích quan trọng của giao tiếp liên văn hóa.

Một người làm công tác dịch thuật nếu như chỉ nắm bắt ý nghĩa mặt chữ của ngôn ngữ mà không có kiến thức về bối cảnh văn hóa, phong tục tập quán, điển tích điển cố, thành ngữ tục ngữ, nhân vật lịch sử và những kiến thức liên quan thì bản dịch rất dễ mắc phải những lỗi sai về văn hóa và gây ra những hiểu lầm tai hại. Chẳng hạn như câu thành ngữ 老马识途 (lão mã thức đồ) trong tiếng Hán nếu chỉ dựa vào nghĩa mặt chữ sẽ rất dễ dịch thành ―ngựa quen đường cũ‖. Nếu so sánh với câu thành ngữ mang nghĩa xấu ―ngựa quen đường cũ‖ trong tiếng Việt, thì câu thành ngữ ―lão mã thức đồ‖

trong tiếng Hán lại hoàn toàn mang nghĩa tốt, biểu thị ý nghĩa ―một con ngựa già nhiều kinh nghiệm sẽ quen thuộc đường đi nước bước, từ đó ví von với một người giàu kinh nghiệm, có khả năng dẫn dắt, lãnh đạo‖, có thể dịch sang câu thành ngữ ―quen tay hay việc‖ của tiếng Việt. Nếu dịch câu thành ngữ

―ngựa quen đường cũ‖ của tiếng Việt sang tiếng Hán thì phải dịch sang câu thành ngữ khác như 旧习 难改 (cựu tập nan cải-chứng nào tật ấy).

Trong giao tiếp hàng ngày, người Việt thích sử dụng thành ngữ, tục ngữ có nguồn gốc từ điển tích điển cố, tác phẩm văn học nổi tiếng như: nợ như chúa Chổm, nói dối như Cuội, ghen như Hoạn Thư, giàu như Thạch Sùng, Trạng chết Chúa cũng băng hà, vắng như chùa bà Đanh… Nếu dịch những cách nói này sang ngôn ngữ khác mà người dịch sử dụng phép trực dịch, tức là dịch thẳng, dịch trực tiếp nguyên văn bản gốc thì sẽ khiến cho người nghe thuộc nền văn hóa khác hoàn toàn cảm thấy khó hiểu, hoặc dẫn đến hiểu nhầm khi giao tiếp. Do đó người dịch liên ngôn cần phải tìm những cách nói tương tự trong ngôn ngữ đích để chuyển tải nét văn hóa này. Ví dụ như khi dịch sang tiếng Hán những cách nói trên, người dịch có thể sử dụng những thành ngữ, ngạn ngữ như sau:

- nợ như chúa Chổm 债台高筑 (trái đài cao trúc-nợ cao như núi).

- nói dối như Cuội 弥天大谎 (di thiên đại hoang-nói dối đầy trời).

- ghen như Hoạn Thư 争风吃醋 (tranh phong cật thố),醋海翻波 (thố hải phiên ba) (trong tiếng Hán ăn giấm mang nghĩa ghen tuông).

- giàu như Thạch Sùng富可敌国 (phú khả địch quốc-giàu nhất nước),腰缠万贯 (yêu triền vạn quán-eo dắt đầy tiền).

- Trạng chết Chúa cũng băng hà 鱼死网破 (ngư tử võng phá-cá chết lưới rách).

- vắng như chùa bà Đanh 门可罗雀 (môn khả la tước-quang lưới bắt chim sẻ trước cổng),门庭冷落 (môn đình lãnh lạc-cửa nhà vắng vẻ).

(4)

Người Trung Quốc khi nhắc đến chim Hoàng Hạc thường nghĩ ngay đến bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng xưa nay của thi nhân thời Đường Thôi Hiệu: ―Tìch nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ, thử địa không dư Hoàng Hạc lâu. Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản, bạch vân thiên tải không du du…‖

(Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi, Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc. Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại,Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không...) Do đó chim Hoàng Hạc thường được sử dụng để ví với sự việc một đi không trở lại. Câu thành ngữ 杳如黄鹤 (yểu như Hoàng Hạc-mất tăm mất tích như chim Hoàng Hạc) khi dịch sang tiếng Việt người dịch phải dịch sang cách nói của văn hóa Việt, đó là ―biệt vô âm tín‖, người Huế còn có cách nói tương tự là ―biệt mù cà cưỡng‖.

Đối với người Việt thì hình ảnh con voi cực kỳ quen thuộc, do đó yếu tố ―voi‖ xuất hiện khá nhiều trong thành ngữ, tục ngữ, chẳng hạn như: được voi đòi tiên, bắt voi đi cày, khỏe như voi... Trong khi đó hình tượng này lại khá xa lạ với người Trung Quốc vì con voi thường sinh sống ở khu vực nhiệt đới. Nếu dịch sang tiếng Hán thì người dịch phải dịch thành cách nói thành ngữ, ngạn ngữ của người Hán như sau:

- bắt voi đi cày 大材小用 (đại tài tiểu dụng).

- đầu voi đuôi chuột虎头蛇尾 (hổ đầu xà vĩ-đầu cọp đuôi rắn).

- được voi đòi tiên 得寸进尺 (đắc thốn thiêm xích-được tấc thêm thước).

- khỏe như voi 力大如牛 (lực đại như ngưu-sức khỏe như trâu)

- lấy thúng úp voi不自量力 (bất tự lượng lực), 一手遮天 (nhất thủ già thiên-một tay che trời).

- tẩm ngẩm tầm ngầm mà đấm chết voi大巧若拙 (đại xảo nhược chuyết-cực giỏi vờ ngu);

不飞则已,一飞冲天 (không bay thì thôi, đã bay là bay ngang trời).

- tránh voi chẳng xấu mặt nào 好汉不吃眼前亏 (hảo hán không chấp); 多一事不如少一 事 (thêm một việc chi bằng bớt một việc).

- trăm voi không được bát xáo 轻诺寡信 (khinh nặc quả tín-hứa lèo thất tín), 过甚其辞 (quá thậm kỳ từ-nói quá lời).

Có thể thấy, dịch thuật trong giao tiếp liên văn hóa phải được xét trên khía cạnh tương đương ngữ dụng (pragmatic equivalence). Đó là kiểu người dịch phải thoát ra khỏi các yêu cầu của chuẩn sử dụng ngôn ngữ trên văn bản gốc và văn bản dịch, thậm chí cả tương đương biểu vật và biểu thái nhằm phục vụ sự thông hiểu của lớp người đọc hay người nghe nào đó.

2.3. Phân tích ngữ dụng trong dịch thuật Lí thuyết hành động ngôn từ của Austin

Dịch thuật là một quá trình phức tạp bao gồm phân tích nhiều yếu tố của ngôn bản nguồn như phân tích ngữ cảnh, phân tích ngữ pháp, phân tích ngữ nghĩa và cả phân tích ngữ dụng. Quá trình phân tích diễn ra nhanh hay chậm tùy theo hình thức dịch (dịch nói hay dịch viết), nhưng muốn dịch đúng thì người làm công tác dịch thuật trước tiên phải hiểu đúng, lý giải đúngngôn bản nguồn trên nhiều yếu tố, trong đó yếu tố phân tích ngữ dụng trong giao tiếp liên văn hóa đóng vai trò nổi bật trong dịch thuật.

Nội dung và mục đích chính của bộ môn ―ngữ dụng học‖ là làm thế nào để đạt hiệu quả cao nhất khi giao tiếp, đây là bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp (tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong ngữ cảnh cụ thể để đạt được những mục đích cụ thể) và tác động qua lại giữa hành động giao tiếp và ngôn ngữ. Với sự xuất hiện của Lý thuyết hành động ngôn từ

(5)

(hay hành động lời nói - speech act theory) do J.L.Austin (1962) khởi xướng, ngữ dụng học bắt đầu bước vào thời kì phát triển mạnh mẽ, đi sâu nghiên cứu và giải đáp nhiều vấn đề của ngôn ngữ học. Từ đây, ngôn ngữ học đã được mở rộng phạm vi quan tâm, bao quát đến từng lời nói cụ thể, từng giao tiếp cụ thể của con người.

Theo quan điểm của thuyết hành động ngôn từ thì ―nói chính là hành động‖. Nghĩa là, khi người ta nói tức là người ta đang thực hiện một hành động như mọi hành động khác trong cuộc sống.

Austin phân biệt ba loại hành vi ngôn ngữ là: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Trong đó hành động ở lời có một vai trò rất quan trọng, đó chính là hành động mà con người thực hiện ngay khi nói ra một phát ngôn và thực hiện bằng chính phương tiện ngôn ngữ. Khi nói năng, con người thực hiện nhiều loại hành động ở lời, như chào hỏi, cám ơn, xin lỗi, cầu khiến, cam đoan, cảm thán, khen, chê, mắng chửi, phàn nàn…[Austin, 1955] Điều này cho thấy, điều mà Austin quan tâm là phát ngôn ngôn hành (performatives). Phát ngôn ngôn hành là những phát ngôn mà khi nói ra chúng, người nói hay người viết chính là đã làm một điều gì đấy hơn là nói một điều gì đấy. Đó là một lí thuyết về dụng học, tức là hành vi ở lời (illocutionary act) như nói ở trên.

Dựa trên cơ sở Lý thuyết hành động ngôn từ của J.L.Austin, nhiều nhà ngôn ngữ học Việt Nam, đặc biệt là các nhà Việt ngữ học đã có những công trình nghiên cứu mới về việc sử dụng ngôn ngữ Việt. Đầu tiên phải kể đến nhà khoa học nổi tiếng Cao Xuân Hạo (1991) với công trình ―Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng‖ đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt. Sách―Đại cương ngôn ngữ học‖ (1993), GS.Đỗ Hữu Châu bàn về Lý thuyết hành động ngôn từ một cách đại cương nhằm đem đến những hiểu biết bước đầu về Lý thuyết hành vi ngôn ngữ cho người đọc. ―Ngữ dụng học‖ (1998) của GS Nguyễn Đức Dânđã nêu những cơ sở lí thuyết căn bản về ngữ dụng học trong đó có hành vi ngôn ngữ. ―Dụng học Việt Ngữ‖ (2000) của GS Nguyễn Thiện Giáp cũng bàn về lí thuyết hành động ngôn từ. Các ông tin rằng ngôn ngữ không chỉ được dùng để thông báo hoặc miêu tả cái gì đó mà nó thường được dùng để làm cái gì đó, để thể hiện các hành động. Các hành động được thực hiện bằng lời gọi là hành động ngôn từ (speech act)...

3. Thảo luận và Kiến nghị

Trong quá trình dịch thuật, người làm công tác biên phiên dịch có thể áp dụng Lý thuyết hành động ngôn từ của Austin vào việc phân tích ngữ dụng trong ngôn bản nguồn, từ đó hiểu rõ hơn mục đích giao tiếp là gì. Khi hiểu được mục đích giao tiếp, thì người dịch có thể hiểu toàn diện hơn ngữ nghĩa của ngôn bản, từ đó bản dịch sẽ chính xác hơn, hoàn thiện hơn.

Khi giao tiếp, mỗi hành động lời nói đều nhằm một mục đích nào đó như chào hỏi, hàn huyên, giới thiệu, hẹn hò, thông báo, cảnh báo... Ví dụ khi giới thiệu, người Trung Quốc thường sử dụng họ + chức danh, người Việt Nam lại thường dùng chức danh + tên, do đó khi dịch cần lưu ý cách nói khác biệt này. Chẳng hạn giới thiệu thầy giáo/bác sĩ/giám đốc Nguyễn Văn Nam, người Việt Nam sẽ giới thiệu ―Đây là thầy/bác sĩ/giám đốc Nam‖, dịch sang tiếng Trung lại là 这是阮老师/医生/经理。(đây là thầy/bác sĩ/giám đốc Nguyễn). Hoặc nếu chỉ muốn giới thiệu ―Đây là anh Nam‖ thì dịch sang tiếng Trung phải là 这是阮先生。(đây là Nguyễn tiên sinh).

Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt cũng vô cùng phong phú, do đó tùy trường hợp mà người dịch phải dịch các đại từ nhân xưng của tiếng Trung như 我 (tôi), 你 (anh) , 他 (anh ta), 她 (cô ta) sang tiếng Việt cho đúng với ngữ cảnh, và phải phân tích ngữ dụng của câu nói đó thuộc nghĩa tốt hay

(6)

nghĩa xấu. Ví dụ với hai đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít 他 (anh ta), 她 (cô ta), ở nghĩa xấu tiếng Việt có những cách nói sau:

他y, gã, gã đó/ấy, hắn, hắn ta, tên ấy/đó, thằng ấy/đó, thằng cha ấy/đó, lão ấy/đó/ta...

她thị, mụ, mụ ta/ấy/đó, bà ta, con ấy/đó, con mụ đó/ấy, con mệ đó/ấy...

Người Trung Quốc khi học tiếng Việt cũng hay nhầm lẫn giữa từ ―bạn‖ nghĩa là bạn bè (朋友 bằng hữu) với ―bạn‖ là đại từ nhân xưng. Ví dụ với câu ―Chào bạn, đây là bạn tôi, bạn ấy tên là Nguyễn Văn Nam‖, người Trung Quốc sẽ có thể sẽ hiểu là 朋友,你好!这是我朋友,朋友的名字 叫阮文南。Thực ra chỉ cần dịch 你好!这是我朋友,他叫阮文南là đúng mục đích giao tiếp mà người nói cần biểu đạt.

Người Việt Nam và Trung Quốc thường tế nhị tránh cách nói ―đi vệ sinh‖ trong những trường hợp trang trọng, lịch sự. Do đó người Trung Quốc thường dùng các cách nói như去洗手 (đi rửa tay, nhà vệ sinh được gọi là 洗手间-nhà rửa tay), 去方便一下(đi thuận tiện một lát), 去化妆 (đi trang điểm) hoặc 内急,解手,嘘嘘,办公,唱歌,一号... Người Việt Nam lại hay dùng các cách nói như đi ngoài, đi toilet, đi WC...Điều này phản ánh những điều cấm kỵ trong giao tiếp liên văn hóa, và uyển ngữ thường được sử dụng trong các ngữ cảnh này. Chẳng hạn như để biểu thị ý nghĩa chết chóc, người Trung Quốc và Việt Nam có hàng trăm thậm chí hàng ngàn cách nói khác nhau, chẳng hạn như:化鹤 (hóa hạc), 驾鹤西游 (cưỡi hạc tây du), 仙游 (tiên du), 长眠 (trường miên-giấc ngủ dài), 百年 (bách niên-trăm tuổi), 寿终正寝 (thọ chung chánh tẩm), 与世长辞 (từ biệt dài với thế gian)... Trong giao tiếp nhiều khi chỉ cần nói 老了 (già rồi), 没了 (mất rồi), 去了, 走了 (đi rồi), 见马克思去了 (đi gặp Các Mác rồi), 去见老祖宗了 (đi gặp lão tổ tông rồi)... là đã có thể biểu thị ý nghĩa qua đời. Nhà nghiên cứu Bằng Giang trong sách Tiếng Việt phong phú (1997) thống kê hơn 1.001 cách diễn đạt về từ chết trong tiếng Việt. Nếu muốn hỏi tuổi người cao tuổi, khi giao tiếp người Trung Quốc sẽ hỏi những câu như 您贵庚了?(Ông được bao nhiêu quý canh rồi?) hoặc您多大年纪了?(Ông được bao nhiêu niên kỷ rồi?) hoặc 您高寿了?(Ông cao thọ bao nhiêu?) .Nếu không hiểu mục đích giao tiếp ẩn chứa sau những ngôn bản mang đầy bản sắc văn hóa này thì người dịch khó lòng dịch đúng ý đồ người nói trong những ngữ cảnh đó.

4. Kết luận

Có thể thấy rõ, ngữ dụng học có ý nghĩa chỉ đạo rất quan trọng đối với vấn đề dịch thuật. Điều này phản ánh hoạt động dịch thuật không những đòi hỏi người dịch phải có kĩ năng phân tích văn bản, kiến thức chuyên ngành, am hiểu văn hóa của ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích mà phải còn phải nhạy bén, tinh tế và sáng tạo, vận dụng đúng ngữ cảnh, phải từ bối cảnh của ngữ cảnh và văn hóa nắm được hàm nghĩa ngữ dụng, từ đó tiến hành phân tích ngữ dụng để thấy rõ mục đích giao tiếp. Việc nghiên cứu ngữ dụng học trong dịch thuật là hướng tiếp cận để một bản dịch được hay hơn và sát nghĩa hơn.

Trong quá trình giảng dạy ngoại ngữ, giáo viên là cầu nối dẫn dắt người học hiểu đúng tầm quan trọng của giao tiếp liên văn hóa. Học ngoại ngữ là học giao tiếp, học ngôn ngữ là học văn hóa, do đó khi giảng dạy ngoại ngữ cần phải định hướng như là học giao tiếp bằng văn hóa, bởi vì ngôn ngữ vừa là thành phần cấu thành văn hóa, vừa là kho tàng chứa đựng, lưu giữ và truyền bá văn hóa. Vận dụng Lí thuyết hành động ngôn từ của Austin vào việc phân tích ngữ dụng trong dịch thuật sẽ giúp

(7)

người học hiểu sâu hơn mục đích giao tiếp, từ đó công tác biên phiên dịch sẽ chính xác hơn khi giao tiếp liên văn hóa.

Tài liệu tham khảo

Austin , J.L. (1955). How to do things with words. NewYork.

Cao Xuân Hạo (2003). Tiếng Việt văn Việt người Việt. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ.

Đinh Hồng Vân (2010). Những phân tích cơ bản và việc hiểu nghĩa ngôn bản gốc trong dịch thuật.

Tạp chì Ngôn ngữ và Đời sống, số 5 (175).

Đỗ Hữu Châu (1995). Giản yếu về ngữ dụng học.Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Đỗ Hữu Châu (2001). Đại cương ngôn ngữ học (T2), Ngữ dụng học.Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

E.T. Hall, E.T. (1959). The silent language. New York: Doubleday.

George Yule, G, (2003). Dụng học (bản tiếng Việt). Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Nguyễn Đức Dân (1998). Ngữ dụng học, Tập 1. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Nguyễn Quang (2004). Một số vấn đề giao tiếp nội văn hóa và giao văn hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Nguyễn Quang (2016). Từ năng lực ngôn ngữ đến năng lực liên văn hóa. Tạp chì Khoa học ĐHQGHN:

Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 32.

Nguyễn Thiện Giáp (2000). Dụng học Việt ngữ. Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

PRAGMATIC ANALYSIS IN TRANSLATION: A VIEW FROM INTERCULTURAL COMMUNICATION

Abstract: Translation has long been an important link of intercultural communication. Translation activities not only requires the translator must have the skills to analyze text, specialized knowledge, knowledge of the culture of the source language and the target language, but also sensitive, delicate and creative, use right context, from cultural context grasp the pragmatic connotations. So you can see that, pragmatic analysis in translation can develop towards how a translation is better and more literal.In the translation process, the translators and interpreters can apply Speech Act Theory of Austin on the pragmatic analysis in source language, from then on, we can understand the purpose of communication. When you understand the purpose of communication, the translator can understand more comprehensive meaning of the text, the translation will be more correct and perfect.

Key words: pragmatic, translation, intercultural communication, speech act theory

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Câu 4 (trang 122 sgk Ngữ văn lớp 7 Tập 1): Nêu nhận xét về tác dụng của việc kết hợp sử dụng phương tiện giao tiếp ngôn ngữ với phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ

- HS biết vận dụng từ ngữ trong đặt câu, viết câu - Góp phần phát triển năng lực - Phẩm chất:.. + Năng lực tự học, tự tra từ điển hiểu nghĩa của từ, giao tiếp hợp tác

Ví dụ như câu hỏi trong chương trình Thời sự thì phải rõ ràng, mạch lạc và tập trung vào vấn đề, sự kiện đang đề cập; trong phỏng vấn Chân dung thì

Chất liệu này chứa đựng những “mã di truyền” văn hóa dân tộc, kết tinh sự thông tuệ và minh triết ngàn đời của cha ông ta nên được sử dụng với một tần

Nhờ điều kiện tự nhiên và khoa học kĩ thuật hiện đại, nền nông nghiệp Bắc Mĩ có đặc điểm gì nổi bật.. - Nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ

Đâu đó quanh ta vẫn còn những con người không có lòng vị tha, sống ích kỉ hẹp hòi; những người chỉ biết đến bản thân mình mà không cần suy nghĩ cho người khác, để đạt

Không chỉ tạo ra một người kể chuyện là người khác, trong các truyện ngắn của mình, Nam Cao còn đem lại sự phong phú cho ngôn từ của người kể chuyện bằng cách đưa

liệu bằng phiếu của tác giả hai bộ từ điển này. Điều đó khiến cho chúng trở thành những thành quả học thuật vượt thời gian của ông. Nguyễn Huệ Chi cho rằng hai bộ sách