• Không có kết quả nào được tìm thấy

CHUYÊN ĐÈ: SỬ DỤNG SĐTD TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "CHUYÊN ĐÈ: SỬ DỤNG SĐTD TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN THCS"

Copied!
1
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY - HỌC MÔN NGỮ VĂN CẤP THCS

1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Ngữ văn tại trường THCS 2. Tác giả:

Họ và tên : Hoàng Thị Minh Huệ Nữ Ngày, tháng/năm sinh: 22/08/1973

Trình độ chuyên môn: Đại học

Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Tổ trưởng tổ KHXH trường THCS Quang Trung.

Điện thoại:036 882 3233 Email: nguoimeyeucon@gmail.com Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100 %

3. Đồng tác giả: Không

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:

Tên đơn vị: Trường THCS Quang Trung

Địa chỉ : Xã Quang Trung- Huyện Kiến Xương- Tỉnh Thái Bình Điện thoại: 0363.821.657

7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ năm học 2016- 2017.

II. BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến:

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY - HỌC MÔN NGỮ VĂN CẤP THCS

2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS

3. Mô tả bản chất của sáng kiến:

3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:

Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em.

(2)

Trong những năm qua, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước nói chung, ở các trường trong tỉnh, trong huyện đã được tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức, nội dung triển khai một số phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy(SĐTD). Có thể khẳng định rằng đây là một trong những PPDH rất quan trọng, vừa rất mới, rất hiện đại, lại rất khả thi, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng SĐTD trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh khí mới” cho học sinh trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý chán học môn Ngữ văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng phấn, lôi cuốn đối với môn học Ngữ văn.

Tuy nhiên, việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn đề còn khó khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn Ngữ văn.

Họ tỏ ra băn khoăn không biết sử dụng SĐTD vào khâu nào trong quá trình dạy học? Phương pháp thiết kế SĐTD, hướng dẫn cách thức sử dụng cho học sinh ra sao?...Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những giáo viên chưa quen với việc ứng dụng Công nghệ thông tin, trình độ Tin học còn hạn chế.

3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:

* Mục đích của giải pháp:

- Giảm tỉ lệ HS yếu kém bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.

- Nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng văn hoá của nhà trường nói chung, góp phần nâng cao ý thức học tập của HS trong nhà trường.

- Giúp HS có hứng thú, ham thích học môn Ngữ văn.

- Tạo cho HS tâm lí thoải mái khi học, mạnh dạn trao đổi ý kiến với bạn bè, thầy cô, hoà đồng với bạn bè, thầy cô; tạo môi trường thân thiện trong nhà trường.

- Giúp HS khắc phục được lối học thụ động, không hứng thú trong học tập môn Ngữ văn, từ đó dần dần củng cố được những kiến thức cũ và tiếp thu kiến thức mới một cách tự giác.

- Là một PPDH rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá trình dạy học mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy môn Ngữ văn.

*Nội dung giải pháp:

1. Sơ đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích:

* Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm vững những tri thức về nó:

a. Khái niệm:

Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng

(3)

cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.

b. Cấu tạo:

Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.

Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.

Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.

Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó.

c. Các bước thiết kế một SĐTD:

Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:

Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)

Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.

Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.

Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.

*Lưu ý:

Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con.

Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.

Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.

Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.

Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.

Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết

(4)

Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.

Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu...

Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.

Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.

2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:

a. Làm quen với SĐTD:

* Đối với giáo viên:

Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).

* Đối với học sinh:

Người xưa có câu “Chưa học bò, chớ lo học chạy”. Quả đúng như vây. Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, để chí ít các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ.

Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen”

với SĐTD, theo các bước sau đây:

Bước 1: “Làm quen”

Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD).

Bước 2: “Đọc hiểu”

(5)

Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình )

Bước 3: “Tập vẽ”

Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, Từ (Xét về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.

Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)

* Lưu ý:

+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ.

+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.

+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ ngắn gọn.

Bước 4: “Trang trí”

Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)

* Lưu ý:

+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc, đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.

+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ, không quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.

Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”

Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt,... )

Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.

Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:

+ Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em.

Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc.

+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài

(6)

trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa.

+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ thống kiến thức.

b . Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học:

b1. Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra:

† Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:

Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.

Ví dụ :

Kiểm tra kiến thưc cũ về bài “ So sánh”( Ngữ văn 6), đầu giờ GV cho từ khoá “ So sánh” rồi yêu cầu HS vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( Nhánh con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các HS khác bổ sung ý. GV kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của HS.

Bản đồ tư duy bài SO SÁNH

- GV cũng có thể vận dụng BĐTD như một công cụ để kiểm tra kiến thức cũ bằng cách đưa ra một bản đồ tư duy rồi nêu yêu cầu để HS thuyêt trình

(7)

Ví dụ: Muốn kiểm tra kiến thức về tác giả, tác phẩm bài Nước Đại Việt ta ( Ngữ Văn 8), GV đưa ra BĐTD rồi yêu cầu HS bổ sung nội dung vào các nhánh,sau đó các em nhìn BĐTD thuyêt trình

BĐTD giới thiệu tác giả, tác phẩm bài Nước Đại Việt ta

† Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:

Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15 phút, 1 tiết) một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư duy hệ thống cho học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ SĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có tính chất lý thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng SĐTD. Ví dụ: lập SĐTD về Từ loại (xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, về Trau dồi vốn từ, về Nghĩa của từ, Các cách phát triển từ vựng, ...trong phân môn Tiếng Việt; lập SĐTD về hệ thống luận điểm, luận cứ trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một kiểu văn bản nào đó...trong phân môn Tập làm văn; hay lập SĐTD để khái quát, sơ đồ hóa kiến thức về một tác giả, tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển tính cách, tâm trạng...của một nhân vật trong tác phẩm truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết cấu của một bài thơ...đối với phân môn Văn học. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác yêu cầu đề và có thể vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu. Sau đây là một số ví dụ minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập SĐTD:

Ví dụ 1:

(8)

Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu chi tiết về chúng.

* Ví dụ 2: Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu nguồn gốc, thể loại và giá trị “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

b2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:

Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua một quá trình thử

(9)

nghiệm chúng trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD.

Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy học bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.

Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở.

Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của bài học.

Ví dụ :

Với văn bản “ Thầy bói xem voi”(Ngữ văn 6) sau phần đọc và tìm hiểu chú thích, GV có thể vẽ mô hình BĐTD lên bảng. BĐTD gồm 5 nhánh chính, ở mỗi nhánh có thể phân thành nhiều nhánh nhỏ tuỳ thuộc vào nội dung bài học.

- Để có thể hoàn thiện mô hình BĐTD của bài học GV sử dụng hệ thống câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức( như: Dựa vào văn bản em hãy xác định các ý chính?HS dễ dàng xác định được các ý chính: hoàn cảnh các thầy bói xem voi, cách xem voi, các thầy phán về voi, kết quả, bài học rút ra).

- Tiếp tục hoàn thành các nhánh của BĐTD bằng hệ thống câu hỏi nhỏ có tính gợi mở như: các thầy xem trong hoàn cảnh nào? Cách xem của các thầy ra sao?...

(Sơ đồ trang sau)

(10)

Bản đồ tư duy văn bản: Thầy bói xem voi- Ngữ văn 6.

b3. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần…:

Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.

- Dùng BĐTD để sơ đồ hoá kiến thức của một phần bài học

Ví dụ: Sơ đồ hoá kiến thức khi phân tích nhân vật Lão Hạc( Ngữ Văn 8)

(11)

- Dùng BĐTD để sơ đồ hoá kiến thức của toàn bài học:

Ví dụ: Sơ đồ hoá toàn bộ kiến thức bài Ánh Trăng( Ngữ Văn 9)

(12)

- Sử dụng BĐTD rất hiệu quả và tiết kiệm được thời gian khi dạy bài ôn tập hoặc tổng kết chương phần

Ví dụ: Sơ đồ minh hoạ

BĐTD Tổng kết Ngữ pháp( Ngữ Văn 9) b.4 Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức:

Cũng như các cách làm trên, chúng ta có thể sử dụng SĐTD để ôn tập và hệ thống kiến thức đã học cho các em. Sau đây là một vài ví dụ:

Ví dụ : Cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ II (Tiết 139,140) như sau:

.

(13)

GIÁO ÁN MINH HỌA Môn Ngữ Văn 7

Tiết

Ý NGHĨA VĂN CHƯƠNG

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT 1. Kiến thức

- Sơ giản về nhà văn Hoài Thanh.

- Quan niệm của tác giả về nguồn gốc, ý nghĩa, công dụng của văn chương.

- Luận điểm và cách trình bày luận điểm về một vấn đề văn học trong một văn bản nghị luận của nhà văn Hoài Thanh.

2. Kĩ năng

- Đọc – hiểu văn bản nghị luận văn học.

- Xác định và phân tích luận điểm được triển khai trong văn bản nghị luận.

- Vận dụng trình bày luận điểm trong bài văn nghị luận 3. Thái độ:

- Yêu thích văn chương, say mê tìm hiểu các tác phẩm văn học.

4. Năng lực hình thành:

- Năng lực tư duy sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ, phân tích...

- Năng lực giao tiếp, hợp tác, chia sẻ...

B- CHUẨN BỊ

- Giáo viên: Soạn giáo án, bảng phụ, bản đồ tư duy, máy computer.

- Học sinh: Bài soạn, sưu tầm một số quan niệm về văn chương.

C- TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

* Hoạt động 1: Khởi động

1. Ổn định tổ chức (1p) 2. Kiểm tra ( 3p)

- Trong văn bản Đức tính giản dị của Bác Hồ, tác giả Phạm Văn Đồng đã đưa ra những luận cứ nào để chứng minh sự giản dị của Bác? Hãy thể hiện những luận cứ đó trên bản đồ tư duy.

3. Giới thiệu bài: (1p)

* Hoạt động 2: Đọc - Hiểu văn bản

Hoạt động của GV Hoạt động của HS Nội dung cần đạt HĐ 1: Đọc và tìm hiểu chung

- Mục tiêu: Giúp HS tìm hiểu các thông tinchung về tác giả và tác phẩm - Phương pháp: vấn đáp, gợi mở, thuyết trình

- Kĩ thuật dạy học: Động não

- Hoạt động của HS: cá nhân, nhóm - Dự kiến thời gian: 10p

I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả:

(14)

GV giới thiệu chân dung nhà văn trên máy.

? Qua phần chuẩn bị ở nhà kết hợp với chú thích SGK em hãy giới thiệu đôi nét về tác giả ?

?Xuất sứ văn bản?

- GV hướng dẫn cách đọc:

giọng vừa rành mạch, vừa xúc cảm, chậm và sâu lắng.

- GV đọc đoạn đầu, gọi 2HS đọc tiếp, nhận xét cách đọc.

- HD tìm hiểu một số từ:

văn chương, cốt yếu, muôn hình vạn trạng.

? Xác định kiểu văn bản?

?Vấn đề nghị luận?

?Nêu bố cục bài văn?

Quan sát Trình bày

Nêu xuất xứ

Quan sát, đọc thầm

Đọc, nhận xét

Tìm hiểu nghĩa từ

Xác định

Phát hiện vấn đề

Nêu bố cục

Hoài Thanh (1909 - 1982)

2. Tác phẩm:

- Viết năm 1936 in trong sách

“Văn chương và hành động”

a. Đọc- nghĩa của từ:

b. Kiểu văn bản:

- Nghị luận văn chương (Giải thích)

- Vấn đề nghị luận: Văn chương có ý nghĩa của nó đối với con người.

c. Bố cục: 3 phần.

- Phần 1: Nguồn gốc cốt yếu của văn chương

- Phần 2: Nhiệm vụ của văn chương

- Phần 3: Công dụng của văn chương

HĐ 2: Tìm hiểu nội dung văn bản

Mục tiêu: Giúp HS tìm hiểu nguồn gốc, nhiệm vụ và công dụng của văn chương - Phương pháp: vấn đáp, gợi mở, giảng bình

- Kĩ thuật dạy học: Động não

- Hoạt động của HS: cá nhân, nhóm - Dự kiến thời gian: 20p

II. Tìm hiểu văn bản:

(15)

- GV vẽ mô hình sơ đồ tư duy lên bảng với từ khóa

“Ý nghĩa văn chương”.

BĐTD gồm 3 nhánh chính, ở các nhánh chính lại chia thành các nhánh nhỏ. Để có thể hoàn thiện BĐTD, GV sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở khai thác kiến thức.

HS lắng nghe, quan sát, vẽ sơ đồ vào vở

1.Nguồn gốc cốt yếu của văn chương

?Như vậy theo Hoài Thanh thì nguồn gốc của văn chương là gì?

?Ông đã lí giải điều đó dựa trên cơ sở nào?

?Em có nhận xét gì về cách dẫn dắt vào vấn đê của tác giả?

- GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm:

Câu hỏi thảo luận nhóm:

HS đọc đoạn đầu.

Nhận xét

thảo luận nhóm lớn

- Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người mà rộng ra là thương muôn vật, muôn loài.

( Lấy một câu chuyện đời xưa kể về một thi sĩ Ân Độ khóc nức nở khi thấy một con chim bị thương rơi xuống chân mình)

=> Vào đề gián tiếp nhẹ nhàng, lôi cuốn, hấp dẫn.( NL kết hợp tự sự).

(16)

Có ý kiến cho rằng quan niệm của Hoài Thanh về nguồn gốc văn chương như vậy là đủ

nhưng chưa chính xác.

Em có đồng ý với ý kiến trên không? Vì sao?

GV hỏi hoặc giới thiệu về nguồn gốc của văn

chương.

? Theo em các quan niệm về văn chương đó độc lập hay loại trừ nhau?

?Đoạn văn trên có mấy ý?

?Dựa vào chú thích số 5, em hãy giải thích 2 ý trên và tìm dẫn chứng CM qua một số tác phẩm?

- GV giới thiệu bằng hình ảnh trên máy.

? Theo Hoài Thanh công dụng của văn chương là gì?

?Tác giả sử dụng phép lập

(3p) :

- Nhóm trưởng tổ chức cho nhóm thảo luận

- Cử thư kí, người trình bày

- Thống nhất đáp án - Báo cáo, nhận xét, bổ sung

HS đọc phần 2.

- 2 ý

HS nhận xét, giải thích

HS theo dõi hình ảnh trên máy

HS đọc phần 3.

Hs nêu

- Độc lập

2. Nhiệm vụ của văn chương

- Văn chương là sự hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng.

- Văn chương còn tạo ra sự sống .

3. Công dụng của văn chương

- Công dụng của văn chương là giúp cho tình cảm và gợi lòng vị tha

-Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có.

- Biết cái đẹp, cái hay của thiên nhiên.( lấy dân chứng)

(17)

luận nào khi đưa ra ý kiến của mình về công dụng của văn chương?

? Công dụng đó được tác giả chỉ ra cụ thể bằng những chứng cứ nào?

? Em hiểu văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có là thế nào?

? Nhận xét cách lập luận?

Giọng văn, kiểu câu … ?

? Ở đoạn cuối, theo tác giả, văn chương có ảnh hưởng ntn đối với đời sống tinh thần nhân loại?

Thảo luận nhóm đôi (1p)

Trả lời cá nhân

Suy nghĩ, trả lời

Nhận xét

Hs bộc lộ

=> Sử dụng nhiều câu ghép, câu khẳng định, câu hỏi tu từ, giàu hình ảnh, cảm xúc, lập luận theo lối đưa ra giả thiết.

=> Đời sống tinh thần nhân loại sẽ rất ngheo nàn nếu thiếu văn chương.

Hoạt động 3: Tổng kết

- Mục tiêu: Giúp HS nắm châc các kiến thức cơ bản về nội dung và nghệ thuật của bài

- Phương pháp: vấn đáp, gợi mở, thuyết trình - Kĩ thuật dạy học: Động não

- Hoạt động của HS: cá nhân, nhóm - Dự kiến thời gian: 5p

? Những nét đặc sắc về nghệ thuật nghị luận của bài văn?

?Nội dung bài văn nghị luận?

III. Tổng kết 1, Nghệ thuật

- Bài văn nghị luận vừa có lí lẽ, vừa có cảm xúc, hình ảnh, trình bày những vấn đề phức tạp một cách ngắn gọn, giản dị, sáng sủa.

2, Nội dung

- Ngồn gốc cốt yếu của văn chương: tình cảm, lòng vị tha.

- Văn chương là hình ảnh của sự sống muôn hình vạn trạng và sáng tạo ra sự sống, gây những tình cảm không có, luyện những tình cảm sẵn có.

(18)

- Đời sống tinh thần của nhân loại nếu thiếu văn chương thì sẽ rất nghèo nàn.

Hoạt động 4: Củng cố (3p)

GV chốt lại toàn bộ nội dung kiến thức bằng bản đồ tư duy.

5. Hướng dẫn về nhà (2p)

- Qua bài văn giúp em hiểu gì về văn chương?

- Hãy dựa vào kiến thức văn học đã có, giải thích và tìm dẫn chứng để chứng minh cho câu: “Văn chương gây cho ta những tình cảm không có, luyện những tình cảm sẵn có”

- Chuẩn bị bài: Ôn tập các văn bản nghị luận đã học. Giờ sau kiểm tra văn 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:

Tóm lại, với những ưu điểm của mình, sơ đồ tư duy trở thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học sinh.Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên BĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó vào việc

(19)

chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.

Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được nội dung bài học.

Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS.

3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp:

Sau một thời gian ứng dụng SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng SĐTĐ một cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, khái quát, hệ thống kiến thức các chương, phần....Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa học hơn, nhanh hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng SĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung bình đã biết dùng SĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em học tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Các em không còn tâm lý chán học, ngại học môn Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng với việc học tập. Vì việc ứng dụng SĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép trước đây.

Không những thế, nếu giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học nhóm giúp thì nó sẽ giúp các em phát huy được tính sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi em, đồng thời kết hợp sức mạnh của các cá nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách hiệu quả. Sơ đồ tư duy tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát triển chính mình một cách hoàn thiện hơn.

3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu :

(20)

STT Họ và tên Năm sinh

Nơi công tác ( hoặc nơi thường trú)

Chức danh

Trình độ chuyên môn

Nội dung công việc

hỗ trợ 1 Trương Thị Hoa 1968 THCS Quang

Trung

GV Ngữ văn

ĐHSP Dự giờ, đóng góp ý kiến

2 Phạm Thị Hà 1974 THCS Quang

Trung

GV Ngữ văn

ĐHSP Dự giờ, đóng góp ý kiến 3.6. Các thông tin cần được bảo vệ : Không

3.7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến (trình độ chuyên môn, cơ sở vật chất,…)

* Trình độ chuyên môn:

- Trình độ từ CĐSP trở lên * Cơ sở vật chất:

- Bảng phụ, giấy A4 - Phiếu học tập

- Bút dạ, bút màu, phấn màu...

- Máy vi tính

- Máy chiếu đa năng 3.8. Tài liệu kèm: không

4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền

Tôi cam kết không sao chép hay vi phạm bản quyền sáng kiến kinh nghiệm Quang Trung, ngày 10 tháng 04 năm 2019 CƠ QUAN ĐƠN VỊ

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận)

(Ký tên, đóng dấu)

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN (Ký và ghi rõ họ tên)

Hoàng Thị Minh Huệ

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Syntactic complexity in ESL writing In Applied Linguistics and Second Language Acquisition (SLA), syntactic complexity, accuracy, lexical complexity, and fluency (CALF)

- Ôn luyện kỹ năng đặt câu, kiểm tra sự hiểu biết của học sinh về nhân vật (trong các bài đọc) qua bài tập đặt câu nhận xét về nhân vật.. - Sử dụng các thành ngữ, tục

Với Chùm nho phẫn nộ, Steinbeck đã tiếp biến các huyền thoại Kitô giáo để tạo sinh một ngụ ngôn hiện đại; tích hợp thể loại phi hư cấu và hư cấu để đa bội hóa

Kiến thức: - Kiến thức: Giúp học sinh củng cố về tìm một trong các thành phần bằng nhau của 1 số và vận dụng để giải các bài toán có lời văn.. PHƯƠNG TIỆN

Tuy nhiên, số lượng máy tính phục vụ dạy học tin học hầu hết các trường tiểu học, THCS chưa được trang cấp; các trường chủ yếu sử dụng máy vi tính cũ đã qua sử dụng

Vận dụng quan điểm dạy học giải quyết vấn đề vào quá trình dạy học môn Vật lý ở trung học phổ thông, bài báo này nghiên cứu tầm quan trọng của bài tập Vật lý, trong đó

Trong phạm vi bài báo này sẽ trình bày kết quả việc đánh giá hiệu quả khi sử dụng phần mềm R trong giảng dạy phần ước lượng kiểm định cho sinh viên năm thứ

- Từ những kết quả khảo sát trong một số chương trình giải trí dành cho giới trẻ trên kênh TRT Huế ở trên, chúng tôi nhận thấy và chỉ ra một số