• Không có kết quả nào được tìm thấy

CẢI CÁCH PHU0NG THÚC QUẢN TRỊ CỐNG TY CỔ PHẦN

IV.2. Cải cách phương thức quản trị sau khủng hoảng 1997

IV.2.2. Thái Lan

Phương thức quản trị công ty ở Thái Lan trước khủng hoảng năm 1997 đi theo mô hình một tầng của Anh-Mỹ.

Sau khủng hoảng năm 1997, cải cách phương thức quản trị công ty nhấn mạnh vào việc nâng cao thực hành chứ không phải thay đối hoàn toàn phương thức quản trị công ty như Indonesia phải làm. Chính phủ Thái Lan đã tiến hành các chính sách sau nhằm nâng cao năng lực quản trị nội bộ ở các doanh nghiệp.

Cuối năm 1997, chính phủ đã phát hành tiêu chí thực

hành quản lý doanh nghiệp niêm yết và yêu cầu ban quản trị các doanh nghiệp phải theo các tiêu chí đó để tăng cường lòng tin của các cố đông, nhà đầu tư và các cá nhân, tổ chức có lợi ích liên quan khác. Đồng thời, còn phát hành hướng dẫn công khai thông tin vê báo cáo tài chính và tóm tắt kết quả kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết.

Năm 1998, chính phủ yêu cầu tấ t cả các công ty niêm yết đều phải có ban kiểm toán nội bộ, đồng thời phát hành một hướng dẫn thực hành kiểm toán ở doanh nghiệp.

Năm 1999, thành lập Viện Quản trị viên với nhiều chương trình tập huấn trong đó có cả các chương trình tập huấn về quản trị công ty.

Năm 2001, phát hành hướng dẫn đôi với các doanh nghiệp niêm yết để bảo đảm rằng cổ đông có đầy đủ thông tin cho các quyết định của mình.

Năm 2002, chính phủ tuyên bố lấy năm 2002 làm năm quản trị doanh nghiệp tốt và tiến hành tổng kết, rú t kinh nghiệm công tác cải cách phương thức quản trị doanh nghiệp trong thời gian trước rồi công bô 15 nguyên tắc quản trị tốt đôi với doanh nghiệp. Chính phủ th àn h lập Trung tâm Quản trị công ty vào năm 2002 để làm nơi tư vấn và trao đổi ý kiến về th àn h lập hệ thông quản trị công ty, đánh giá thực hành quản trị công ty ở các doanh nghiệp niêm yết, thúc đẩy thực hành kiểm soát doanh nghiệp, thành lập ú y ban Quốc gia về quản trị công ty cổ phần để đề xuất các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy đổi mối phương thức quản trị công ty. ú y ban này do đích thân thủ tướng hoặc phó thủ tướng làm chủ tịch với

82 Cải cách kinh tế ở Đông Á thời kỳ mười năm sau khủng hoảng 1997

Phần hai: Những cải cách kinh tế chủ yếu 83

các úy viên là các bộ trưởng và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân.

Nhằm nâng cao năng lực giám sát của thị trường đối với doanh nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã nghiên cứu các mô hình đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp của các nưốc rồi đem áp dụng vào đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp Thái Lan. Những doanh nghiệp được đánh giá là có hoạt động giám sát tốt sẽ được nêu danh trên website của sở Giao dịch chứng khoán Thái Lan (SET), được giảm phí hội viên tại Sở,...

Nhiều giải thưởng được nghĩ ra để trao cho các doanh nghiệp thực hành quản trị công ty tốt, chẳng hạn như Giải thướng Cáo bạch tốt nhất cho các doanh nghiệp có bản cáo bạch tốt nhất theo các tiêu chí của SET, Giải thưởng Doanh nghiệp thực hành kiểm toán tốt nhất của năm của Viện Kiểm toán nội bộ Thái Lan, Giải thưởng Hội đồng quản trị tốt nhất của năm của Công ty Dịch vụ thông tin và xếp hạng Thái Lan,...

Ngoài ra, Chính phủ Thái khuyên khích thành lập hiệp hội các nhà đầu tư làm nơi để các nhà đầu tư sinh hoạt, chia sẻ thông tin quản trị công ty và thực hành các kỷ năng cần thiết trong hội nghị cố đông tại các doanh nghiệp.

Cùng với các biện pháp nâng cao năng lực quản trị nội bộ và giám sát của thị trường, Chính phủ Thái Lan còn tìm cách củng cô và tăng cường các cơ sở pháp lý về quản trị rông ty, gọi đây là giám sát quy chế. Luật Doanh nghiệp cổ phần Thái Lan và Luật Giao dịch chứng khoán đểu được sửa đổi lại theo hướng đảm bảo tốt hơn quyền lợi

84 Cải cách kinh tế ở Đông Á thời kỳ mười năm sau khủng hoảng 1997

của cô đông, nhất là cô đông nhỏ và cô đông phân tán. Các quy dịnh pháp lý nhưng dưới luật khác như quy định về thành lập ban kiểm toán nội bộ, quy định vê giám đốc độc lập đế bảo vệ cố đông nhỏ vì cố đông nhỏ thì không thê

đại diện trong hội đồng quản trị, quy định về giao dịch liên kết để ngăn không cho các hình thức giao dịch nàv làm phương hại quyền lợi của cổ đông nhỏ, quy định về công khai và minh bạch thông tin, quy định cho phép tập thê cố đông có quyền bô nhiệm thanh tra đối với doanh nghiệp, quy định vê việc cổ đông sở hữu chưa đến 5% cổ phần của doanh nghiệp cũng có quyền khỏi kiện hội đồng quản tri trong một sô trường hợp,...

Tuy nhiên, công tác cải cách quản trị công ty của Thái Lan đã không đạt kết quả cao như họ mong muốn. Nhiều chính sách chỉ mang tính khuyên khích doanh nghiệp hãy thực hành quản trị nội bộ, chứ không áp đặt thành nghĩa vụ cho họ, và vì vậy vẫn có tình trạng người đứng đầu hội đồng quản trị lại kiêm tổng giám đốc điều hành (CEO) công ty. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng, không nên gọi những gì diễn ra ỏ Thái Lan là cải cách phương thức quản trị công ty mà chỉ nên gọi là đẩy mạnh quán trị công ty.1 Theo đánh giá của Credit Lyonnais Securities Asia (2004) thì, công tác thực thi quản trị trong thực tê của Thái Lan kém, chỉ tốt hơn không nhiêu so vối Indonesia và Philippines.

1. Limpaphayom, P. and J. T. Connelly (2004). Corporate governance in Thailand. Review of Corporate Governance in Asia (June), ADM

Phần hai: Những cải cách kinh tê chủ yếu 85