• Không có kết quả nào được tìm thấy

Từ khóa: hòa nhập xã hội, thiệt thòi, cấu trúc chức năng, hệ thống xã hội

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Từ khóa: hòa nhập xã hội, thiệt thòi, cấu trúc chức năng, hệ thống xã hội"

Copied!
9
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

NGHIÊN CỨU HÕA NHẬP XÃ HỘI CỦA NGƯỜI THIỆT THÕI QUA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC

PHẠM VĂN QUYẾT* TRẦN VĂN KHAM*

Tóm tắt: Nghiên cứu về hòa nhập xã hội rất được quan tâm trong các nghiên cứu xã hội ở nhiều quốc gia phương Tây dựa trên các quan điểm của lý thuyết cấu trúc chức năng, hệ thống hay phát triển xã hội, đến các vấn đề thực tiễn hướng đến các mô hình trợ giúp từ góc độ luật học, nhân học, xã hội học, tâm lý học, công tác xã hội… Bài viết này đi vào phân tích tổng lược các xu hướng nghiên cứu về mặt lý thuyết và thực tiễn từ cách tiếp cận hòa nhập xã hội trên thế giới và Việt Nam, để qua đó chỉ ra những vấn đề đặt ra khi nghiên cứu về các nhóm thiệt thòi, dễ bị tổn thương ở Việt Nam trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, cũng như trong bối cảnh xây dựng các mô hình an sinh xã hội và dịch vụ xã hội.

Từ khóa: hòa nhập xã hội, thiệt thòi, cấu trúc chức năng, hệ thống xã hội.

1. Dẫn nhập

Hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi là một trong những chủ đề nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá, cải thiện sự phân phối các nguồn lực kinh tế xã hội, hạn chế bất bình đẳng và phân hóa các nhóm xã hội, trong đó có nhóm người thiệt thòi.

Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài và ở Việt Nam với nhiều quan điểm và trên nhiều chiều cạnh khác nhau liên quan đến hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi. Về mặt học thuật, việc hệ thống hóa các quan điểm khác nhau về hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi không chỉ giúp làm rõ vấn đề này đã được phân tích, khái quát, được giải quyết ở mức độ nào, trên những chiều cạnh nào, mà còn định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo trên chủ đề này.

Trong nhiều chiều cạnh của vấn đề hòa nhập xã hội và hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi đã được các nghiên cứu, bài viết đi sâu vào hai chiều cạnh chủ yếu là các quan điểm lý thuyết về hòa nhập xã hội và thực tiễn hòa nhập xã hội của nhóm người thiệt thòi qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước hiện có.

2. Nghiên cứu các quan điểm lý thuyết về hòa nhập xã hội

Khái niệm hòa nhập xã hội (social inclusion) và hội nhập xã hội (social intergration) trong nhiều trường hợp không được phân biệt rõ ràng. Cook (1994) cho rằng hòa nhập,

*Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

(2)

hội nhập và sự cố kết (cohesion) có thể thay thế cho nhau, nhưng cũng có thể sử dụng với sự khác nhau được nhấn mạnh trong những trường hợp cụ thể. Nghiên cứu của UNRISD (1994) cho rằng hội nhập xã hội “với một số người nó là mục tiêu của sự hòa nhập, nghĩa là quyền và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người… Còn với những người khác, nó đơn giản chỉ là cách để mô tả các khuôn mẫu đã được thiết lập về mối quan hệ của con người trong một xã hội nhất định”.

Quỹ Laidlaw, Canada cho rằng hội nhập xã hội là một trong chùm các thuật ngữ xã hội được sử dụng rộng rãi trong phát triển chính sách hiện nay, hàm ý hướng đến thúc đẩy xã hội bền vững, an toàn, công bằng, tôn trọng sự đa dạng, bình đẳng, tạo dựng cơ hội cho mọi người… Một số thuật ngữ khác cũng nhằm thúc đẩy những mục tiêu đó như hoà nhập xã hội, cố kết xã hội và vốn xã hội (Laidlaw Foundation, 2002).

Sự hòa nhập của cá nhân/ nhóm vào xã hội đã được các nhà xã hội học quan tâm từ rất sớm. Nó là sự thể hiện đầy đủ nhất mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và xã hội, là kết quả của quá trình xã hội hóa. Các nhà chức năng luận, từ những người đặt nền móng đầu tiên như E. Durkheim (1858-1917), H. Spencer (1820-1903), V. Pareto (1848-1942) đến A. Radcliffe-Brown (1881-1955), B. Malinowski (1884-1955) và sau này là T. Parsons (1902-1979), R. Mertton (1910-2003), P. Blau (1918-2002)… đều có những công trình nghiên cứu nổi tiếng đề cập đến vấn đề này.

Các nhà xã hội học đầu tiên của chủ thuyết này đều nhấn mạnh đến sự hội nhập, sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận cấu thành của chỉnh thể xã hội theo những chức năng nhất định. Trong tác phẩm “Phân công lao động xã hội” (The Division of Labor in Society, 1893), nhà xã hội học người Pháp E. Durkheim, ngay từ thế kỷ 19 đã rất nổi tiếng với khái niệm đoàn kết xã hội, có nội dung gần với khái niệm hội nhập xã hội đang được sử dụng hiện nay (Lê Ngọc Hùng, 2002). Durkheim với khái niệm đoàn kết xã hội, không những đã làm rõ được nội dung, cơ chế, cách thức của hội nhập xã hội, mà còn chỉ ra sức mạnh tạo nên sự hội nhập của cá nhân xã hội.

Nhà xã hội học nổi tiếng người Anh H. Spencer đã nói về sự cố gắng tồn tại của mỗi cơ thể trong sự cân bằng không ổn định giữa cơ thể và môi trường, vì vậy cơ thể luôn phải lưu ý đến sự khác biệt để giữ sự cân bằng đó, đồng thời cũng để thích nghi và hòa nhập. Trong quan niệm về “siêu cơ thể” xã hội, ông cho rằng cơ thể xã hội gồm nhiều thành phần phức tạp với những chức năng khác nhau trong khuôn khổ của cơ thể này và theo những phương thức nhất định, chúng phải trao đổi, thích ứng và hòa nhập với nhau (Korte, 1993: 94).

Trong nghiên cứu liên quan đến sự hội nhập của các thành tố xã hội với các thành tố khác trong cấu trúc xã hội, A. Radcliffe-Brown đã xem xét mỗi thể chế xã hội ăn khớp thế nào với các thể chế xã hội khác để đáp ứng nhu cầu của xã hội và giữ vững sự thống nhất hài hòa mà nó được coi là chuẩn. Ngay cả khi xung đột xảy ra, thì điều này được coi là có chức năng cho sự hội nhập nếu nó là nghi thức và được thể chế hóa (Bilton, Bonnett và cộng sự, 1987: 507).

Mở rộng và phát triển quan điểm của các nhà kinh điển của lý thuyết cấu trúc chức năng, T. Parsons, R. Mertton đã có công rất lớn khi áp dụng lý thuyết này giải thích sự hội nhập của các thành tố cấu trúc xã hội trong xã hội hiện đại của người Mỹ.

Nhìn chung hầu hết các nhà xã hội học theo thuyết cấu trúc chức năng đều đã có các

(3)

nghiên cứu về hội nhập xã hội, đều đã lý giải về sự hội nhập, sự liên kết, sự thích ứng của các thành tố xã hội trong cấu trúc hệ thống xã hội, dù đó là các yếu tố cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội hay là các yếu tố hành vi.

Những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã chứng kiến các nghiên cứu và hoạt động ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Öc... hướng đến vấn đề loại trừ xã hội (social exclusion) gắn liền với những vấn đề nghèo đói, việc làm. Định hướng này được phát triển và ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các khía cạnh văn hóa, xã hội và dần được chuyển thành nội dung hòa nhập xã hội. Song chủ yếu là các nghiên cứu hướng đến giải quyết các vấn đề của thực tế xã hội, đặc biệt về sự hòa nhập xã hội của các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Sau đây xin lược qua một số nghiên cứu tiêu biểu có ảnh hưởng nhất định đến các xu hướng, quan điểm đó.

Bàn luận về hòa nhập xã hội, nhiều nghiên cứu cho rằng cần xem xét nó trong mối quan hệ với loại trừ xã hội (social exclusion) (Abbott và Mcconkey, 2006). Hai quan niệm này cần phân tích trong mỗi quan hệ tương hỗ nhằm nhận ra xuất phát điểm cho việc phân tích các vấn đề liên quan. Nhiều nghiên cứu đã làm rõ nội dung về loại trừ xã hội và những đối sách để giảm sự loại trừ, hướng tới hòa nhập xã hội (Sylver và Miller, 2003; Parr và cộng sự, 2004; Levitas, 2006; Buckmaster và Thomas, 2009).

Về loại trừ xã hội, Linoir chú ý nhiều đến chiều cạnh kinh tế, còn Sylver và Miller nhấn mạnh đó là sự cắt đứt các mối quan hệ xã hội và trải nghiệm về sự phân biệt đối xử.

Levitas thì coi bị loại trừ xã hội là những người cảm nhận được sự thiếu thốn vật chất và sự hạn chế các cơ hội tham gia vào những hoạt động văn hóa xã hội. Tương tự, Buckmaster và Thomas coi đó là những người bị loại khỏi sự hỗ trợ xã hội, bị mất đi các mối quan hệ xã hội và không có cơ hội tham gia vào đời sống kinh tế, xã hội và chính trị (Cobigo và cộng sự, 2012).

Một số tác giả khác thì luôn gắn hòa nhập xã hội với loại trừ xã hội, so sánh và làm rõ sự gắn kết và khác biệt giữa chúng (Cappo D, C. Jackson, M. Craig, Laidlaw Foundation và nhiều tác giả khác). Trong khi Jackson (1999) cho rằng hòa nhập xã hội có thể sản sinh ra sự loại trừ xã hội, thì Cappo (2002) lại đặt hòa nhập bên cạnh sự loại trừ.

Ông cho rằng một xã hội hòa nhập được coi là nơi tất cả mọi người cảm thấy có giá trị, sự khác biệt giữa họ được tôn trọng và các nhu cầu cơ bản được đáp ứng.

Quỹ Laidlaw, Canada (2002) coi loại trừ xã hội như một xu hướng chính trị quan trọng ở châu Âu những năm 80 của thế kỷ trước do sự gia tăng của phân hóa xã hội. Hòa nhập xã hội, trong chừng mực nào đó là sự phản ứng của loại trừ xã hội. Trên cơ sở những tranh luận về vấn đề loại trừ xã hội, Quỹ đã đưa ra cách hiểu biết về hòa nhập xã hội phù hợp với công việc thực tế. Theo đó, hòa nhập xã hội là nói về sự đảm bảo chắc chắn rằng tất cả trẻ em và người lớn đều có khả năng tham gia như những thành viên có trách nhiệm, được tôn trọng và có phẩm giá của xã hội.

Tuy nhiên, theo Clegg và cộng sự (2008), Bollard (2009) việc xem hòa nhập xã hội đối lập với loại trừ xã hội gây ra sự nhầm lẫn và dẫn đến nhấn mạnh vào hàng rào của nó chứ không phải là yếu tố có thể làm tăng hòa nhập xã hội của cá nhân. Đó như một rào cản, tách nó ra khỏi các nhà hoạch định chính sách, người cung cấp dịch vụ và các nguồn tài nguyên khác cho hội nhập. Điều này có nguy cơ dẫn vấn đề hòa nhập xã hội đến sự hùng biện thuần túy về ý thức hệ.

(4)

Tiếp cận hội nhập xã hội theo hướng thúc đẩy tăng cường sự hội nhập xã hội, tôn trọng sự khác biệt, giảm bớt khả năng xảy ra bạo lực và cung cấp nền tảng cho sự hợp tác đã trở lên phổ biến từ Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội năm 1995 tại Copenhagen. Trong báo cáo của Hội nghị bàn về hòa/hội nhập xã hội đã hướng đến một quá trình năng động có nguyên tắc trong đó có sự tham gia tích cực của xã hội để tiếp tục phát triển con người.

Quá trình hội nhập xã hội khuyến khích, thực hiện việc "đến với nhau", khi tôn trọng sự khác biệt và duy trì sự đa dạng. Điều này không chỉ làm cho mọi người thích nghi với xã hội, mà còn để đảm bảo rằng xã hội chấp nhận được tất cả mọi người (United Nations, 1995). Quan điểm đẩy mạnh hội nhập xã hội đã được thể hiện trong các chương trình nghị sự của Hội đồng châu Âu vào những năm 1990 và 2000 (Bach, 2002) thông qua các chương trình chống đói nghèo, tăng cường sự cố kết xã hội như Chương trình nghị sự Lisbon (Béland, 2007). Phần lớn các tác giả nghiên cứu về hòa nhập xã hội trong khoảng hai chục năm lại đây đã chấp nhận, ủng hộ và phát triển vấn đề hòa nhập xã hội theo hướng thúc đẩy và tăng cường hòa nhập xã hội.

Tăng cường hội nhập xã hội trên cơ sở giải quyết các yếu tố cấu thành của nó là một hướng đi được nhiều tác giả chú trọng phân tích. Khi đưa ra các tiêu chí thể hiện nội dung và bản chất của hòa nhập xã hội, Cobigo and Stuart (2010) đề xuất bốn phạm trù công cụ để thúc đẩy hòa nhập xã hội. Thứ nhất, gắn với pháp chế và chính sách: đó là bảo vệ những quyền chính đáng và tự do của người khuyết tật; thứ hai, sự ủng hội của cộng đồng và dịch vụ; thứ ba, chống kỳ thị và phân biệt đối xử; và thứ tư, hệ thống giám sát và đánh giá.

Burchardt, Le Grand & Piachaud thì xác định 4 khía cạnh của hội nhập xã hội là: 1) Tiêu dùng: khả năng mua hàng hóa và các dịch vụ như thu nhập; 2) Sản xuất: tham gia vào các hoạt động kinh tế và các giá trị xã hội như việc làm, chăm sóc trẻ và các công việc tình nguyện; 3) Hoạt động chính trị: tham gia ở các địa phương, quốc gia vào việc ra các quyết định thông qua bầu cử hoặc là thành viên của ban vận động bầu cử; 4) sự tham gia xã hội với gia đình, bạn bè và cộng đồng (Cobigo và cộng sự, 2012).

Ở một khía cạnh khác, theo hướng tiếp cận thúc đẩy hòa nhập xã hội, nhiều tác giả quan tâm đến các điều kiện đảm bảo sự bình đẳng theo những chiều cạnh văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội (C. Ferguson, V. Cobigo và cộng sự, Laidlaw Foundation).

Trong báo cáo ủy quyền của UNDESA, Clare Ferguson (2008) hướng đến phân tích 3 quá trình thúc đẩy hòa nhập xã hội. Ba quá trình này là khác biệt nhưng gắn kết với nhau, thể hiện cụ thể phạm vi, mà với nó mọi người có thể sống và làm việc với nhau trên cơ sở bình đẳng: 1) Công nhận các nhóm xã hội, các nền văn hóa với bản sắc khác nhau nhằm thúc đẩy tôn trọng phẩm giá và sự hợp tác; 2) đại diện của tiếng nói chính trị để đảm bảo rằng các lợi ích của các nhóm khác nhau được tính đến trong việc ra quyết định và phân bổ nguồn lực; 3) phân phối lại các nguồn lực kinh tế xã hội giữa các cá nhân và các nhóm để ngăn chặn sự gia tăng của bất bình đẳng và phân hóa giữa các dân tộc, khu vực, giới tính, tuổi tác hay bản sắc xã hội.

Sau khi điểm qua các quan điểm khác nhau về hòa nhập xã hội (Cobigo và cộng sự, 2012) hướng đến 4 điểm cần chú ý khi xem xét về nội dung, ý nghĩa của hòa nhập xã hội.

Đó là: thứ nhất, chỉ dẫn xác định các công cụ cho cải thiện việc hòa nhập xã hội; thứ hai,

(5)

từ bỏ các quan điểm đạo đức có xu hướng áp đặt quan điểm của nhóm thống trị và hướng tới một cách tiếp cận tôn trọng kỳ vọng, sự lựa chọn, và nhu cầu cá nhân; thứ ba, hòa nhập xã hội được xem xét từ quan điểm phát triển mà ở đó hòa nhập xã hội của một người cải thiện với nhiều cơ hội để tương tác và tham gia vào các hoạt động với những người khác; thứ tư, cần có sự đo lường hòa nhập xã hội về sự phụ thuộc xã hội và hạnh phúc của một người.

Ở Việt Nam, những nghiên cứu lý thuyết về hòa nhập xã hội chưa nhiều. Một số công trình công bố liên quan đến chủ đề này vẫn chủ yếu được phân tích trên cơ sở khái niệm làm việc phù hợp với nghiên cứu về hòa nhập xã hội của một nhóm yếu thế cụ thể (Trần Nguyệt Minh Thu, 2014). Việc xem xét, tiếp cận hòa nhập xã hội cũng chủ yếu theo hướng tăng cường thúc đẩy hòa nhập xã hội đối với các nhóm yếu thế (Trần Văn Kham, 2011; Phạm Văn Quyết và Trần Văn Kham, 2016; Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Đông Á, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2016).

Như vậy, từ cuối những năm 70 của thế kỷ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo bàn về hòa nhập xã hội, giúp thấu hiểu về bản chất, nội dung và các tiếp cận chủ yếu tới vấn đề hòa nhập xã hội. Tiếp cận hòa nhập xã hội theo hướng loại trừ xã hội thường gắn với sự loại trừ về kinh tế, được quan tâm nhiều trong giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ trước. Tiếp cận theo hướng thúc đẩy tăng cường hòa nhập xã hội, mang tính toàn diện hơn, đã thống trị và được đông đảo các trung tâm, các tổ chức chính trị xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen, năm 1995.

3. Hòa nhập xã hội của người thiệt thòi

Hòa nhập xã hội là định hướng tạo ra một xã hội, mà ở đó mọi người được hòa mình vào các hoạt động chung của xã hội, thể hiện được vai trò, tiếng nói, và sự ảnh hưởng của cá nhân. Khái niệm hòa nhập xã hội thường được sử dụng cho quá trình tham gia vào đời sống cộng đồng/xã hội của các nhóm tàn tật, nhóm yếu thế hay nhóm dễ bị tổn thương. Đây là các nhóm xã hội thường bị hạn chế hay thua thiệt hơn các nhóm xã hội khác về mặt sức khỏe, về điều kiện và các cơ hội kiếm sống, hoặc về năng lực để thực hiện những hoạt động sống khác của cộng đồng. Họ có thể thuộc các nhóm xã hội với những đặc trưng riêng biệt bị tách ra khỏi cộng đồng, bị cộng đồng xa lánh, coi thường và thậm chí bị phân biệt đối xử.

Quan niệm về bất lợi/thiệt thòi (disadvantage) được một loạt tác giả đề cập gần đây trong cuốn sách “Social Work and Disadvantage: Addressing the roots of stigma and discrimination” (Burker và Parker, 2007). Nghiên cứu này cũng chỉ ra vấn đề bất lợi của các nhóm xã hội này nằm ở chính trong nhận thức của xã hội và việc làm giảm sự bất lợi của họ cần thực hiện thông qua việc làm giảm những định kiến và cách nhìn phân biệt của xã hội đối với nhóm người này.

Nghiên cứu của Mayer (2003) đưa ra quan niệm chung về nhóm thiệt thòi, theo đó nhóm này này được xây dựng dựa trên: (a) các tiêu chí về dân tộc, nghèo đói, giới tính, (b) nhấn mạnh đến khả năng khó tiếp cận đến các phương thức cơ bản để tự đáp ứng cuộc sống như thông tin, việc làm... Cách tiếp cận này đã vượt quá những đặc trưng cụ thể của nhóm (về giới tính, độ tuổi, dân tộc…) và đã dựa trên các điều kiện chung của xã hội, theo đó nhóm này đang phải đối mặt với nhiều rào cản trong cuộc sống. Để giải quyết hay

(6)

làm giảm sự thiệt thòi của cá nhân hay của nhóm, phải tìm ra các giải pháp làm giảm hay xoá bỏ các rào cản đó, và quan trọng là trao quyền cho các cá nhân bị thiệt thòi để họ tự mình vượt qua những rào cản và tiếp cận đến những nguồn lực cần thiết cho cuộc sống của họ.

Theo Phạm Văn Quyết và Phạm Anh Tuấn (2012), nhóm thiệt thòi là những người mà các hành vi xã hội của họ hoàn toàn "bất lợi" cho họ; họ bị từ chối việc tiếp cận và sử dụng các phương diện cần thiết cho cuộc sống như: quyền tự chủ, trách nhiệm, lòng tự trọng, quyền được sự hỗ trợ của cộng đồng, các dịch vụ công cộng và an sinh xã hội.

Thúc đẩy hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi cũng chính là khắc phục việc không tiếp cận được các phương tiện thiết yếu hoặc loại bỏ rào cản đối với sự tự cung tự cấp.

Điều này có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức, tùy thuộc vào mô hình yếu thế của họ, sẽ cho phép họ nâng cao vị thế để phát triển các công cụ hoặc các nguồn lực cần thiết của nhóm.

Hướng đến các giải pháp thúc đẩy hòa nhập xã hội cho nhóm thiệt thòi, nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đã phân tích các chiều cạnh liên quan đến trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, giải trí… Từ góc độ trách nhiệm xã hội, việc thúc đẩy và tạo điều kiện cho các nhóm thiệt thòi tham gia vào các hoạt động chung là trách nhiệm của toàn xã hội chứ không phải chỉ của các nhóm người này hay gia đình họ. Quan điểm này được Goodin (1985) đề cập trong nghiên cứu về “Protecting the vulnerable: a re-analysis of our social responsibilities”. Trong nghiên cứu này trách nhiệm xã hội được thể hiện ở các vấn đề về đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm của cá nhân và tập thể… Nghiên cứu đã tạo được nền tảng lý luận cho việc tiếp cận và giải quyết những vấn đề thiệt thòi trong xã hội.

Thúc đẩy hoà nhập cho các nhóm thiệt thòi trong các hoạt động giáo dục cũng là chủ đề nổi bật của các nghiên cứu. Ở nhiều nền văn hoá, nhất là văn hoá phương Đông, giáo dục và học nghề luôn là thang đo cho sự thành công và là nhân tố tạo nên sự thay đổi rõ ràng trong cuộc sống. Nghiên cứu của Cox (2000) chỉ ra các hình thức loại bỏ những bất lợi của trẻ em trong các hoạt động học tập nhằm tạo sự phát triển bền vững của cá nhân ở các giai đoạn tiếp. Nhóm bị thiệt thòi, đặc biệt là trẻ em, là đối tượng của nhiều nghiên cứu và các chương trình hành động. Các đề xuất từ nghiên cứu này nhấn mạnh đến vai trò của gia đình, các hoạt động trợ giúp quá trình hoà nhập sớm, vai trò của giáo dục đối với hoà nhập, xây dựng các mô hình dịch vụ phù hợp nhằm tạo được quá trình học tập suốt đời.

Các định hướng của UNESCO về giáo dục và giáo dục hoà nhập cho các đối tượng thiệt thòi như người khuyết tật, người nghèo, người thiểu số được xem như những giải pháp để thúc đẩy sự tham gia và hoà nhập xã hội một cách bền vững (UNESCO, 2007).

Nghiên cứu này chỉ rõ hiệu quả của giáo dục và trường học công trong việc thúc đẩy sự hoà nhập của các nhóm yếu thế.

Nghiên cứu của Sparkes (1999) về trường học, giáo dục và loại trừ xã hội nhấn mạnh đến vai trò của trường học trong việc tạo nên sự khác biệt và là nhân tố loại bỏ, giảm thiểu sự loại trừ xã hội của các đối tượng dễ bị tổn thương, nhất là với các trẻ em gái, trẻ khuyết tật, trẻ ở vùng kinh tế khó khăn. Trong khi đó, nghiên cứu của Liên minh châu Âu năm 2006 cũng chỉ ra một loạt các chỉ báo về giáo dục đối với quá trình hoà

(7)

nhập cũng như tác động của giáo dục đối với quá trình học tập suốt đời với sự hoà nhập xã hội của các nhóm đối tượng yếu thế.

Việc đào tạo nghề và tạo việc làm cho các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế cũng được nhiều học giả quan tâm và tập trung nghiên cứu. Các nghiên cứu ở Öc, Canada (Laidlaw Foundations) cũng xác định nhiều định hướng nghiên cứu về vai trò việc làm đối với quá trình hoà nhập chung của xã hội và của các nhóm yếu thế.

Nghiên cứu của Atkinson và Hills (1998) nhấn mạnh đến vấn đề nghèo đói và việc làm với việc làm giảm thiểu vấn đề loại trừ xã hội. Các cá nhân trong xã hội bị loại trừ (marginalized) bởi họ bị thiếu các cơ hội làm việc, và do đó không thể tự đảm bảo nguồn thu nhập cá nhân. Thiếu việc làm ở giới trẻ càng làm cho tình trạng bị loại trừ trầm trọng hơn ở những năm tiếp theo của giới trẻ. Để tăng khả năng hoà nhập xã hội cần tăng cơ hội làm việc của giới trẻ từ những năm đầu của cuộc sống.

Ở Việt Nam, tại hội thảo “Tạo điều kiện cho người khuyết tật hòa nhập vào cộng đồng” do Sở Lao động - Thương binh - Xã hội thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi, Hội Thanh niên Khuyết tật của thành phố, tổ chức năm 2001 đã nhấn mạnh việc được giúp đỡ để học hành, phục hồi chức năng và phát huy tiềm năng của bản thân, được đào tạo nghề nghiệp, kể cả những kỹ năng sống độc lập như là phương cách hữu hiệu giúp người khuyết tật tự nuôi sống bản thân. Hội thảo cũng chỉ ra hướng giải quyết vấn đề việc làm của người khuyết tật như thúc đẩy xã hội hóa công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật, sắp xếp việc làm phù hợp với sức khỏe, bệnh tật, hoàn cảnh gia đình, với điều kiện kinh tế địa phương để người khuyết tật phục hồi chức năng và phát triển ngay tại cộng đồng (Quỳnh Mai, 2001).

Như vậy, từ việc nghiên cứu xác định, phân loại nhóm thiệt thòi đến nghiên cứu về mối liên hệ giữa các chiều cạnh liên quan đến trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, hoạt động giải trí… và vai trò của chúng đối với việc thúc đẩy hòa nhập cộng đồng, hòa nhập xã hội của nhóm đều được các nhà nghiên cứu bàn đến và giải quyết ở các mức độ khác nhau trên cơ sở thực tiễn của từng quốc gia, từng vùng miền cũng như đối với từng nhóm thiệt thòi cụ thể.

4. Kết luận

Từ rất sớm, trong khoa học xã hội, hòa nhập xã hội chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ lý thuyết cấu trúc chức năng. Theo đó, hội nhập được xem xét như sự liên kết, sự thích ứng của các yếu tố trong cấu trúc hệ thống xã hội, từ các yếu tố cá nhân, nhóm, tổ chức xã hội, thiết chế xã hội hay đến các yếu tố hành vi. Từ những năm 80 thế kỷ trước vấn đề này các nghiên cứu chủ yếu gắn với sự hòa nhập xã hội của các nhóm bị loại trừ, nhóm yếu thế, nhóm dễ bị tổn thương.

Hướng tiếp cận đối lập với loại trừ xã hội, mà thường gắn với sự loại trừ về kinh tế, được quan tâm nhiều trong giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ trước. Còn tiếp cận theo hướng thúc đẩy tăng cường hòa nhập xã hội, mang tính toàn diện hơn, đã được xem là khuynh hướng chủ đạo và được rất đông đảo các trung tâm, các tổ chức chính trị xã hội, các nhà nghiên cứu quan tâm kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen, năm 1995.

(8)

Bàn về vấn đề hòa nhập xã hội của nhóm thiệt thòi, các nghiên cứu cũng hướng đến xem xét, làm rõ và phân loại nhóm thiệt thòi, đã nghiên cứu và chỉ ra được mối liên hệ và sự ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau của các chiều cạnh về trách nhiệm xã hội, giáo dục, việc làm, hoạt động giải trí… đối với việc thúc đẩy hòa nhập xã hội của nhóm yếu thế hay nhóm bị loại trừ. Theo đó, vấn đề hòa nhập xã hội của nhóm yếu thế cũng được giải quyết ở các mức độ khác nhau trên cơ sở thực tiễn của từng quốc gia, từng khu vực và với từng nhóm thiệt thòi cụ thể.

Tài liệu tham khảo

Abbott S., and McConkey R. 2006. The barriers to social inclusion as perceived by people with intellectual disabilities. Journal of Intellectual Disabilities, 10: 275-287.

Atkinson A John Hills (editors). 1998. Exclusion, Employment and Opportunity. London School of Economics Houghton Street London WC2A 2AE.

Atkinson A. B. and E. Marlier.2010. Analysing and Measuring Social Inclusionin a Global Context. Printed by the United Nations, New York

Bates, P., and Davis, F.A. 2004. Social capital, social inclusion and services for people with learning disabilities. Disability & Society, 19: 195-207.

Beland D. 2007. The social exclusion discourse: ideas and policy change. The Policy Press, Vol. 35, No.

1:123-139.

Bilton T., Kenvin Bonnett và những người khác.1987. Nhập môn xã hội học (bản dịch của Phạm Thủy Ba).

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 1993.

Bollard, M. 2009. A review and critique. In M. Bollard (eds.), Intellectual disability and social inclusion: A critical review. Elsevier Limited: 5-18.

Burker P, and Jonathan Parker. 2007. Social work and Disadvantage: Addressing the roots of stigma and discrimination. Jessica Kingsley Publishers.

Cappo D. 2002. Social inclusion initiative. Social inclusion, participation and empowerment.

Address to Australian Council of Social Services National Congress 28-29 November, 2002, Hobart.

Clegg, J., Murphy, E., Almack, K., and Harvey, A. 2008. Tensions around inclusion: reframing the moral horizon. Journal of Applied Research in Intellectual Disabilities, 21: 81–94.

Cobigo V. and Stuart, H. 2010. Social inclusion and mental health. Current Opinion in Psychiatry, 23, 453–457.

Cobigo V., C. Psych1, Hélène Ouellette-Kuntz, Rosemary Lysaght, Lynn Martin 2012. Shifting our Conceptualization of Social Inclusion in Stigma Research and Action, Vol 2, No 2:75–84.

Cook S. 1994. Management of Social Transformations Programme 10th Session of the Intergovernmental Council, UNRISD. http://www.unesco.org.

Cox T. 2000. Research on Work-related Stress Office for Official Publications of the European Communities.

Cummins, R. A., and Lau, A. L. D. 2003. Community integration or community exposure? A review and discussion in relation to people with an intellectual disability. Journal of Applied Research in Intellectual Disabilities, 16(2), 145–157.

Daly M. and Silver H. 2008. Social exclusion and social capital: a comparison and critique', Theory and Society, Vol. 37.

Durkheim E. 1893. The Division of Labor in Society. New York, Macmillan Free Press.1964:37.

Endruweit và G. Trommsdorff. 1993. Từ điển xã hội học, (bản dịch tiếng Việt). Nxb. Thế giới, 2002.

(9)

Ferguson C. 2008. Report commissioned by the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA) for the Expert Group Meeting on Promoting Social Integration. Helsinki, Finland, 8- 10 July 2008.

Goodin R., 1985. Protecting the vulnerable - A Re-analysis of Social Responsibilities. The University of Chicago Press.

Harvey, J. 2000. Sport for all: State, citizenship and governance. Paper presented at the World Congress on Sport for All, Québec City, Canada.

International Labour Organization. 2011. Social Inclusion of People with Disabilities through Access to Employment. http://www.ilo.org.

Jackson, C.1999. “Social Exclusion and Gender: Does One Size Fit All?”. The European Journal of Development Research, 11(1):125-146.

Jo Sparkes, 1999. Schools, Education and Social Exclusion. London School of Economics Houghton Street London WC2A 2AE.

Korte H. 1993. Nhập môn lịch sử xã hội học (bản dịch từ tiếng Đức của dịch giả Nguyễn Liên Hương). Nxb Thế giới, Hà Nội. 1997.

Krier D. 2014. Social Integration and Durkheim. Boundlees Sociology, 14 Nov. 2014. Retrieved 02 Jan.

2015.https://www.boundless.com/sociology/textbooks/ boundless-sociology-textbook/sociology- 1/the-history-of-sociology-23/durkheim-and-social-integration-151.

Laidlaw Foundation 2002. The Laidlaw Foundation’s Perspective on Social Inclusion. National Library of Canada Cataloguing in Publication.

Lawson, H. and D. Anderson-Butcher. 2000. The social work of sport. Paper presented at the World Congress on Sport for All. Québec City, Canada.

Lê Ngọc Hùng. 2002. Lịch sử và lý thuyết xã hội học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Martinek, T. and D. Hellison. 1997. Fostering resiliency in underserved youth through physical activity.

Quest 49(1): 34-49.

Mayer E. 2003. Effective Communitive Project, trên www.effectivecommunities.com, 11/ 2003.

Phạm Văn Quyết, Phạm Anh Tuấn. 2012. Nhà nước Việt Nam với công tác hỗ trợ nhóm yếu thế. Trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế: Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về công tác xã hội và ASXH. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

Phạm Van Quyet, Trần Văn Kham. 2016. Discrimination against Poor Immigrant Workers in Vietnamese Urban Areas. Vietnamese Social Sciences, Vol. 1 (171).

Quỳnh Mai. 2001. Hòa nhập cộng đồng - những khó khăn và bất cập. http://nld.com.vn/thoi-su-trong- nuoc/hoa-nhap-cong-dong-nhung-kho-khan-va-bat-cap-74645.htm

Trần Nguyệt Minh Thu. 2014. Quá trình hòa nhập cộng đồng đô thị của người lao động di cư tự do. Luận án Tiến sỹ.

United Nations. 1995. Report of the World Summit for Social Development, Copenhagen, 6-12 March.

Sales No. E. 96.IV.8. Also available from http://www.un.org/esa/socdev/wssd/index.htm.

United Nations. 1995. Report of the World Summit for Social Development, Copenhagen, 6-12 March.

Sales No. E. 96.IV.8. Also available from http://www.un.org/esa/socdev/wssd/index.htm

UNRISD. 1994. Social Integration: Approaches and Issues, UNRISD Briefing Paper No.1, World Summit for Social Development.

Wolfensberger, W. 1998. A brief introduction to Social Role Valorization: A high order concept for addressing the plight of societally devalued people, and for structuring human services (3rd edition). Syracuse, NY: Training Institute for Human Service Planning Leadership & Change Agentry (Syracuse University).

http://www.unesco.org. http://www.ilo.org. 2015.https://www.boundless.com/s n www.effectivecommunities.com, http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/hoa-nhap-cong-dong-nhung-kho-khan-va-bat-cap-74645.htm http://www.un.org/esa/socdev/wssd/index.htm.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Việc ứng dụng mô hình chức năng theo quan niệm của Merton nghiên cứu những hiện tượng xã hội như sự nghèo khổ, tôi phạm, nạn mãi dâm v.v… sẽ chỉ ra quan hệ có

Phỏng vấn 150 bà mẹ mang con nhỏ đến khám bệnh tại 50 trạm y tế ở những xã đã được thực hiện Chương trình sau 6 tháng (1987), các kết quả cho thấy 80% có hiểu biết khá

Thông tin đến với con người được chia thành ba loại: 1) Thông tin cần thiết, 2) Thông tin có thể cần thiết, 3) Thông tin không cần thiết. Việc phân loại như vậy

Chiến tranh không chỉ tác động mạnh đến hình dạng tháp dân số, mà còn để lại dấu ấn cả trong đặc điểm cơ cáu gia đình ở địa phương: toàn xã có khoảng 25% gia đình

Trong vấn đề này các nghiên cứu xã hội học vẫn còn dừng lại ở những chỉ số bề ngoài về tần suất và loại hình văn hóa người công nhân tham gia, chưa đi sâu lý giải

Bảo hiểm y tế tự nguyện đƣợc xem là giải pháp cần thiết đối với khu vực nông thôn nói chung, vùng ven nói riêng trong việc giải quyết các vấn đề về ASXH cũng

Một nhóm các chuyên gia xã hội học và kinh tế học từ một số cơ quan nghiên cứu do Viện Xã hội học chủ trì đã tham gia dự án thông qua một đề tài nhánh “Các khía cạnh

- Nguyên nhân dẫn đến sự phân hoá xã hội thành người giàu và người nghèo: con người đã tạo ra được một lượng sản phẩm dư thừa từ công cụ lao động bằng kim