• Không có kết quả nào được tìm thấy

Đề thi thử THPTQG môn Ngữ Văn - chuyên KHTN lần 2 - năm 2019 (có lời giải chi tiết) | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2022

Chia sẻ "Đề thi thử THPTQG môn Ngữ Văn - chuyên KHTN lần 2 - năm 2019 (có lời giải chi tiết) | Ngữ văn, Đề thi THPT quốc gia - Ôn Luyện"

Copied!
6
0
0

Loading.... (view fulltext now)

Văn bản

(1)

TRƯỜNG ĐH KHTN TRƯỜNG THPT CHUYÊN

ĐỀ THI LẦN 2

ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2019 Môn thi: NGỮ VĂN

Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề

Họ, tên thí sinh:...

Số báo danh:...

Mục tiêu:

Kiến thức: Kiểm tra mức độ đạt chuẩn kiến thức của học sinh cụ thể như sau:

- Kiến thức làm văn, tiếng Việt

- Kiến thức văn học: Tác giả, tác phẩm.

- Kiến thức đời sống.

Kĩ năng:

- Kĩ năng đọc hiểu văn bản.

- Kĩ năng tạo lập văn bản (viết đoạn văn nghị luận xã hội, viết bài văn nghị luận văn học).

PHẦN I. ĐỌC – HIỂU

Đọc trích dẫn và thực hiện các yêu cầu từ 1 đến 4:

“Trải qua các cuộc chiến tranh chống xâm lược, những cuộc đọ sức với thiên tai khắc nghiệt, nhân dân ta đã có truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Tình làng nghĩa xóm, thương người như thể thương thân đã trở thành một đạo lí của dân tộc. Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình:

“Đèn nhà ai nhà nấy rạng”, “Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy.

Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cái nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động…Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng. Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy “sáng cắp ô đi tôi cắp ô về” một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắn chắc hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao.

Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công

việc. Một bác sĩ vô cảm không thể có tình thương người bệnh, nhất là những người bệnh nghèo. Không

thiếu những trường hợp vì vô cảm mà người bệnh không được chăm sóc chu đáo, dẫn đến những cái chết

đáng tiếc. Một kĩ sư vô cảm có thể dửng dưng trước những sinh mạng con người do công trình không đạt

chất lượng của mình gây ra. Một tài xế vô cảm sẵn sàng xem thường tính mạng của người khác khi phóng

nhanh vượt ẩu. Một thầy giáo vô cảm chỉ nghĩ bài giảng cho xong chuyện, còn nói gì đến tình nghĩa thầy

trò, tận tâm dạy bảo, nhất là những học trò còn học kém, gia đình khó khăn. Cán bộ vô cảm sẽ không thể

nhìn thấy hoàn cảnh của mỗi người dân, không thấy những nỗi bức xúc của nhân dân trong khu dân cư để

tìm cách tháo gỡ, quan liêu, xa rời dân và dễ rơi vào tệ “hành” dân.

(2)

Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người có ý nghĩa”

(Theo Diệu Hương, báo Nhân dân Chủ nhật, 17/2/2016) Câu 1: Thông hiểu

Đặt nhan đề cho đoạn trích trên.

Câu 2: Nhận biết

Chỉ ra các từ ngữ biểu hiện của bệnh vô cảm trong đoạn trích Câu 3: Thông hiểu

Nêu ngắn gọn ý nghĩa nội dung đoạn trích Câu 4: Thông hiểu

Anh/chị hiểu câu: “Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người giống như một cái máy: “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về” một cách đơn điệu và tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắc chắn hiệu quả công việc sẽ không cao” như thế nào?

PHẦN II. LÀM VĂN Câu 1: Vận dụng cao

Anh/chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ nêu suy nghĩ về vấn đề sau: “Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng.

Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người có ý nghĩa”

Câu 2: Vận dụng cao

Trong một lần phát hiện Kim Lân đã từng nói: “Khi viết về nạn đói ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói, người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi họng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.

Qua văn bản Vợ nhặt của Kim Lân, anh/chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

Câu Nội dung

Đọc hiểu

1.

Phương pháp: căn cứ nội dung văn bản, phân tích Cách giải:

Gợi ý nhan đề:

- Bệnh vô cảm - Chống bệnh vô cảm - Căn bệnh vô cảm 2.

Phương pháp: căn cứ nội dung văn bản

(3)

Cách giải:

Biểu hiện bệnh vô cảm: thờ ơ, bàng quan, làm ngơ, không mảy may xúc động, vô tri, vô giác, đơn điệu, tẻ nhạt, quan liêu…

3.

Phương pháp: căn cứ nội dung văn bản, phân tích, tổng hợp Cách giải:

Ý nghĩa nội dung đoạn trích: Giúp con người nhìn nhận cuộc sống khách quan, biết phân biệt lối sống ích kỉ, hẹp hòi, luôn làm ngơ trước những nỗi bất hạnh, không may của người sống xung quanh mình.

Từ đó biết nhận thức đúng đắn, học tập lối sống hòa đồng, biết yêu thương, sẻ chia, đồng cảm với những người xung quanh.

4.

Phương pháp: phân tích Cách giải:

Phê phán những người mắc bệnh vô cảm sẽ không có đam mê, nhiệt huyết với công việc của mình mà chỉ làm việc như một cỗ máy vô hồn, không đem lại hiệu quả lao động, thậm chí ảnh hưởng xấu, gây hậu quả nghiêm trọng tới những người xung quanh. Bệnh vô cảm dễ dàng dẫn con người đến thói vô trách nhiệm, thiếu lương tâm.

Làm văn

1

Phương pháp: phân tích, tổng hợp Cách giải:

Thí sinh đảm bảo yêu cầu về hình thức, có thể bày tỏ ý kiến riêng, trình bày theo những cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý sau:

- Đây là lời răn dạy, giáo dục mỗi con người cần biết trân trọng, yêu thương, hòa đồng với những người xung quanh. Người viết muốn hướng đến những chuẩn giá trị đạo đức chung để làm một con người có trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng.

- Tình thương là giá trị đạo đức, là thước đo phẩm chất của mỗi con người. Trong cuộc đời mỗi người phải đối mặt với khó khăn, gian khổ, phải biết chấp nhận những thất bại và cần chia sẻ khó khăn của bản thân để tìm thấy sự đồng cảm của người khác. Có trải qua đắng cay mới thấy được giá trị hạnh phúc. Người vô cảm sẽ không có những phẩm chất ấy, họ là những con người ích kỉ, hẹp hòi là những “dòng máu trắng” chỉ biết chăm lo cho bản thân bởi vật chúng ta phải đấu tranh,

phê phán không dung túng cho thói xấu, ích kỉ này.

- Để trở thành một con người chân chính trước hết phải có trách nhiệm với chính mình: suy nghĩ, nhận thức, hành động, lời nói, ứng xử,… cần phải thận trọng, chin chắn. Trái tim mỗi người luôn luôn cần được sưởi ấm, thắp sáng, ước mơ, khát vọng, ý chí sáng tạo… những điều đó lại luôn phải gắn với cộng đồng, với những người xung quanh. Bởi vậy, khi nói hay làm bất cứ việc gì cũng phải có trách nhiệm với chính mình, tự nâng cao nhân cách bản thân qua hành động, ngôn ngữ. Không những thế phải không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao tri thức, đạo đức; tránh lối sống ích kỉ, hẹp hòi, vụ lợi, chà đạp lên quyền lợi của người khác. Phấn đấu cho quyền lợi của cá nhân nhưng không làm tổn hại lợi ích tập thể.

(4)

- Sống có trách nhiệm với bản thân, với cộng động, sự hoà đồng với mọi người xung quanh. Mỗi người cần biết quan tâm, chia sẻ những vui buồn trong cuộc sống với những người xung quanh.

Sự cống hiến trí tuệ, sức lực của bản thân để góp phần làm cho cộng đồng văn minh, tiến bộ. Bản thân phải có ý thức, trách nhiệm đóng góp một phần công sức lao động cho cộng đồng xã hội.

- Xã hội cần lên án mạnh mẽ lối sống vô cảm, vô trách nhiệm coi đó như một căn bệnh cần loại bỏ của xã hội.

2

Phương pháp: phân tích, tổng hợp Cách giải:

- Yêu cầu về kĩ năng: Học sinh biết cách làm bài nghị luận văn học có bố cục chặt chẽ, mạch lạc;

diễn đạt, hành văn trôi chảy, ít mắc lỗi dùng từ đặt câu, chính tả,…

- Yêu cầu về kiến thức: Hiểu đúng yêu cầu của đề bài: Khẳng định sức sống, niềm tin tưởng vào tương lai của các nhân vật trong văn bản. Khát vọng sống mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp.

- Học sinh phải đảm bảo những nội dung sau:

1.Phần khái quát:

- Nêu một số nét khái quát về tác giả và tác phẩm: Kim Lân được coi là nhà văn của đồng ruộng Việt Nam bởi các sáng tác của ông viết nhiều và viết hay về nông thôn về cuộc sống của những người dân lao động; tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân thấm đẫm tinh thần nhân đạo luông hướng con người về sự sống, ánh sáng và tương lai.

- Trích dẫn ý kiến.

2.Phần nội dung:

Ý 1 (1,0 điểm): - Giải thích sơ qua ý kiến trong phần trích dẫn: Tác phẩm nói về một hiện thức khốc liệt của nạn đói 1945, nhưng những người đói không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống

“Khi viết về… sống cho ra con người” => niềm tin cao đẹp nhất, đây cũng là một biểu hiện của tinh thần nhân đạo.

Bối cảnh lịch sử đất nước: Thực trạng nạn đối năm 1945 được cụ thể hóa ở một xóm ngụ cư:

“Cái đói đã tràn… mùi gây của xác người”, một thực trạng ảm đạm, tang hương người sống đang sống lẫn với người đã chết, người sống cũng không ra hồn người mà lay lắt, dặt dẹo “xanh xám như những bóng ma”. Trong không khí đau thương ấy vẫn lóe lên niềm vui khi “Giữa cái cành tối sầm vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh” => Tràng dẫn người đàn bà về làm vợ, xây tổ ấm gia đình, đã vượt lên một hiện thực khốc liệt với những chết chóc để hướng tới sự sống tương lai.

Ý 2 (1,0 điểm): Việc lây vợ của Tràng làm cho những người dân trong xóm ngụ cư “lạ lắm”, họ bàn tán, phán đoán về sự lạ đời ấy “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Sự xuất hiện của Tràng và người đàn bà lạ đã xua tan sự ảm đạm tăm tối cố hữu nơi xóm ngụ cư, một thoáng mừng vui lóe lên sự sống, sự kiện ấy như một làn gió mát lành thổi vào giữa không khí oi nồng đầy mùi tử khí của những khuôn mặt “rạng rỡ”. Tuy nhiên, niềm vui vừa chợt lóe lên lại phải nhường chỗ cho sự lo âu, phấp phỏng “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về.

Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?” Một nỗi lo lắng về sự sống, sự tồn tại của con người, sự sống và cái chết luôn rình rập; người dân ngụ cư lo cho đôi vợ chồng trẻ “có nuôi nổi nhau…” họ không dám chắc vào sự sống nhưng vẫn còn hi vọng, cuộc hôn nhân của

(5)

Tràng giúp cho người đời nghĩ đến sự sống chứ không phải cái chết. Với Tràng một cảm giác

“lạ lẫm” “mới mẻ” chưa từng thấy ở người đàn ông thô mộc ấy, cái nụ cười tủm tỉm, cai khuôn mặt phớn phở thường trực xuất hiện => Trong cái chết vẫn diễn ra hàng ngày, hàng giờ thì sự sống vẫn tồn tại, bất chấp sự khắc nghiệt của cái đói, cái chết đang bủa vây.

Ý 3 (1,5 điểm): - Niềm vui, hạnh phúc thực sự đổi thay khi họ đã nên vợ, nên chồng, hai con người không hề quen biết, chỉ gặp nhau đôi bận trong những câu đùa vui tếu táo đã gắn bó họ để thành vợ thành chồng. Hoàn cảnh thảm đạm của đói khát lại là nền tảng để nuôi khát vọng sống và đã giúp họ sống, tồn tại.

- Sự thay đổi ấy không chỉ diễn ra với Tràng “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải” hạnh phúc đến bất ngờ. Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Niềm vui ấy còn đến với mọi thành viên trong gia đình. Nếu như trước khi Tràng có vợ, căn nhà của hai mẹ con vốn lụp xụp, rách nát thêm phần nhếch nhác bẩn thỉu thì khi Tràng gắn bó cuộc đời với thị đã có sự thay đổi khác hẳn “Nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu gọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi nên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Bà cụ Tứ “đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở” cuộc sống mới như có phép nhiệm màu làm thay đổi tất cả. Vẻ khắc khổ không còn in trên nét mặt bà cụ Tứ mà “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Cô dâu mới cũng góp phần vào công cuộc “cải cách”. Từ một cô gái chao chát, chỏng lỏn trở thành

“người đàn bà hiền hậu đúng mực”, thị tỏ rõ là người vợ chu đáo biết chăm lo cho tổ ấm gia đình “quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Cảnh tượng rất bình thường giản dị nhưng với Tràng “lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa dân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Tất cả các thành viên trong gia đình “ai nấy đều có ý nghĩa rằng thu xếp của nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn”. Bà cụ Tứ ân cần chu đáo với các con “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu, bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà còn hướng đến một tương lai tươi sáng “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” “ngoảng đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem” bà đã đặt niềm tin vào cuộc sống, vận dụng triết lí dân gian “Chớ than phận khó ai ơi.

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây” (bài ca dao Mười cái trứng), một niềm tin rất hồn nhiên của người nông dân nhưng không phải không có cơ sở đó là trong hoàn cảnh nào con người cũng cần biết nương tựa vào nhau để vươn lên. Cuộc sống trong gia đình Tràng thật hạnh phúc “Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế”. Tuy nhiên, niềm vui xen lẫn những phấp phỏng lo ấu, xen lẫn cái đói cái cơ cực của bữa ăn bằng “miếng cám đắng chát và nghẹn bứ”, tủi cực, đau xót nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng về tương lai, về ngày mai tươi sáng.

-Ý 4 (0,5 điểm): Hình ảnh “lá cờ đỏ bay phấp phới” ở cuối truyện mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc; đó là hỉnh ảnh tươi sáng, là niềm tin bất diệt vào tương lai. Đây là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc, trong hoàn cảnh tận cùng của đói khát con người đã thấy ánh sáng của cách mạng. Hình ảnh

(6)

này là kết tinh niềm tin, tinh thần lạc quan của người nông dân trước cách mạng.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu liên quan

Từ đó, liên hệ với tâm trạng của người thanh niên khi được giác ngộ lí tưởng cộng sản trong bài thơ Từ ấy (Tố Hữu) để nhận xét về khuynh hướng trữ tình –

Trình bày đầy đủ các phần Mở đoạn, Thân đoạn, Kết đoạn. Phần Mở đoạn biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân đoạn biết triển khai liên kết chặt chẽ

người dân giờ nhìn thấy chính quyền cho tất cả lên một xe chứa rác lớn, và tin rằng việc mình tự phân loại là vô nghĩa; chính quyền cũng không phân loại xe chứa

– Ý kiến thứ hai: Đó là là một kết thúc tự nhiên, tất yếu: ý kiến này nhìn nhận, đánh giá kết thúc của tác phẩm trong mối quan hệ với lô gíc diễn biến tâm trạng

Câu 3: Anh (chị) có đồng tình với giải pháp của tác giả những người bị ám ảnh bởi thiết bị điện tử được nêu trong đoạn trích: “Bạn hãy làm một cuộc cách

Khi về đến thành phố Huế: “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang

- Cần làm gì để thực hiện mơ ước của bản thân: Con đường dẫn tới ước mơ cũng vô cùng khó khăn, không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được, nhưng với những người

 Ý thức và năng lực tự chịu trách nhiệm về bản thân mình giúp con người có nhận thức và hành động đúng đắn trong cuộc sống, biết tự trọng cá nhân và tôn